Thứ Năm, 27 tháng 11, 2008

Hướng dẫn kế toán chiết khấu thương mại

1. Khái niệm chiết khấu thương mại

Theo chuẩn mực kế toán Việt Nam, chuẩn mực số 14 “Doanh thu và thu nhập khác” (Ban hành và công bố theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), thì: Chiết khấu thương mại là khoản chiết khấu mà doanh nghiệp bán giảm giá niêm yết cho khách hàng mua hàng với khối lượng lớn.

2. Kế toán chiết khấu thương mại

2.1. Tài khoản sử dụng: Để hạch toán khoản chiết khấu thương mại kế toán sử dụng Tài khoản 521- Chiết khấu thương mại: Tài khoản 521 dùng đểphản ánh khoản chiết khấu thương mại mà doanh nghiệp đã giảm trừ, hoặc thanh toán cho người mua hàng do họ đã mua hàng, dịch vụ với khối lượng lớn theo thoả thuận về chiết khấu thương mại đã ghi trên hợp đồng kinh tế mua bán hoặc các cam kết mua, bán hàng.

2.2. Kế toán khoản chiết khấu thương mại:
Chỉ hạch toán vào tài khoản này khoản chiết khấu thương mại người mua được hưởng đã thực hiện trong kỳ theo đúng chính sách chiết khấu thương mại của doanh nghiệp đã quy định.

Trường hợp người mua hàng nhiều lần mới đạt được lượng hàng mua được hưởng chiết khấu thì khoản chiết khấu thương mại này được ghi giảm vào giá bán trên “Hóa đơn (GTGT)” hoặc “Hoá đơn bán hàng” lần cuối cùng. Trên hoá đơn thể hiện rõ dòng ghi Chiết khấu thương mại mà khách hàng được hưởng.

Tại Điểm 5.5 Mục IV Phần B Thông tư số 120/2003/TT-BTC (12/12/2003) của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành Nghị định số 158/2003/NĐ-CP (10/12/2003) của Chính phủ hướng dẫn: “Nếu việc giảm giá áp dụng căn cứ vào số lượng, doanh số hàng hóa, dịch vụ thực tế mua đạt mức nhất định thì số tiền giảm giá của hàng hóa đã bán được tính điều chỉnh trên hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trên hóa đơn phải ghi rõ số hóa đơn và số tiền được giảm giá”.

Lần mua cuối cùng được xác định dựa trên hợp đồng kinh tế giữa các bên. Do đó, trường hợp công ty và các đại lý ký kết hợp đồng kinh tế, trong đó xác định ngày 31/12 hàng năm là ngày xác định công nợ và thực hiện chiết khấu thì ngày 31/12 được coi là lần mua cuối cùng để thực hiện việc điều chỉnh giảm giá. Nếu công ty và các đại lý không xác định lần mua cuối cùng trong hợp đồng kinh tế thì thực hiện chiết khấu sản lượng trên hóa đơn theo hướng dẫn tại Công văn số 1884/TCT-PCCS (22/6/2004).

* Đối với doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp khấu trừ:
- Căn cứ vào hoá đơn GTGT , kế toán phản ánh số chiết khấu thương mại
Nợ TK 521- Chiết khấu thương mại
Nợ TK 3331- Thuế GTGT phải nộp(33311)
Có TK 131- Phải thu của khách hàng
- Căn cứ váo hoá đơn GTGT, phiếu thu, giấy báo Có của ngân hàng..., kế toán phản ánh doanh thu bán hàng
Nợ TK 131- Phải thu của khách hàng
Có TK 511- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Có TK 3331- Thuế GTGT phải nộp(33311)

Ví dụ: Tại công ty LD dinh dưỡng Quốc tế có Hóa đơn GTGT số 0014658 xuất tháng 5 cho công ty T&T (hình thức thanh toán chuyển khoản sau)ghi:
Sản phẩm Super 50 : 1.000 kg * 10.000 = 10.000.000 đ
Sản phẩm Under 30 : 2.000 kg * 7.500 = 15.000.000 đ
Chiết khấu thương mại tháng 4: 10 kg sản phẩm Super 50 và 20 kg sản phẩm Under 30 tương đương: 100.000 đ + 150.000 đ = 250.000 đ
Thành tiền: 10.000.000 + 15.000.000 – 250.000 = 24.750.000 đ
Thuế GTGT 10%: 2.475.000 đ
Tổng cộng: 27.225.000 đ

Công ty LD dinh dưỡng Quốc tế, căn cứ vào Hoá đơn GTGT số 0014658, ghi sổ kế toán theo các bút toán:
- Phản ánh số chiết khấu thương mại thực tế phát sinh trong kỳ, ghi:
Nợ TK 521 – 250.000đ
Nợ TK 3331 – 25.000đ
Có TK 131 – 275.000đ
- Phản ảnh doanh thu
Nợ TK 131 – 27.500.000đ
Có TK 511 – 25.000.000đ
Có TK 3331 – 2.500.000đ
Công ty T&T căn cứ vào Hoá đơn GTGT số 0014658(Liên 2- Giao cho khách hàng), ghi sổ kế toán theo bút toán:
Nợ TK 156 – 24.750.000đ
Nợ TK 133 – 2.475.000đ
Có TK 331- 27.225.000đ

* Đối với doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp trực tiếp:
- Căn cứ vào hoá đơn bán hàng, kế toán phản ánh số chiết khấu thương mại
Nợ TK 521- Chiết khấu thương mại
Có TK 131- Phải thu của khách hàng
- Căn cứ váo hoá đơn bán hàng, kế toán phản ánh doanh thu bán hàng
Nợ TK 131- Phải thu của khách hàng
Có TK 511- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ

Trường hợp khách hàng không tiếp tục mua hàng, hoặc khi số chiết khấu thương mại người mua được hưởng lớn hơn số tiền bán hàng được ghi trên hoá đơn lần cuối cùng thì phải chi tiền chiết khấu thương mại cho người mua. Khoản chiết khấu thương mại trong các trường hợp này được hạch toán vào Tài khoản 521.

Khi thanh tóan tiền cho khách hàng doanh nghiệp phải xuất hoá đơn chiết khấu thương mại, lập phiếu chi tiền theo đúng quy định cho khách hàng. Căn cứ váo hoá đơn GTGT(Đối với doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp khấu trừ) hoặc hoá đơn bán hàng(Đối với doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp trự tiếp), phiếu chi, giấy báo Nợ của Ngân hàng, kế toán bên bán ghi sổ theo bút toán:
Nợ TK 521
Nợ TK 3331(Nếu có)
Có TK 111,112

Trường hợp người mua hàng với khối lượng lớn được hưởng chiết khấu thương mại, giá bán phản ánh trên hoá đơn là giá đã giảm giá(đã trừ chiết khấu thương mại) thì khoản chiết khấu thương mại này không được hạch toán vào TK 521. Doanh thu bán hàng phản ánh theo giá đã trừ chiết khấu thương mại.

Điểm 3, mục IV, Thông tư số 89/2002/TT-BTC ngày 09/10/2002 của Bộ tài chính hướng dẫn kế toán thực hiện 04 chuẩn mực kế toán ban hành kèm theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC ngày 01/12/2001 của Bộ tài chính hướng dẫn: trường hợp người mua hàng với khối lượng lớn được hưởng chiết khấu thương mại, giá bán phản ánh trên hoá đơn là giá đã giảm giá (đã trừ chiết khấu thương mại) thì khoản chiết khấu thương mại này không được hạch toán vào tài khoản 521.

Doanh thu bán hàng phản ánh theo giá đã khấu trừ chiết khấu thương mại. Công ty có thể xuất hoá đơn theo giá đã giảm, việc xuất hoá đơn chiết khấu thương mại thực hiện theo quy định tại điểm 5.5, mục IV, phần B Thông tư số 120/2003/TT-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ tài chính: “Hàng hoá, dịch vụ có giảm giá ghi trên hóa đơn thì trên hóa đơn phải ghi rõ: tỷ lệ % hoặc mức giảm giá, giá bán chưa có thuế GTGT (giá bán đã giảm giá), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có thuế GTGT. Nếu việc giảm giá áp dụng căn cứ vào số lượng, doanh số hàng hoá, dịch vụ thực tế mua đạt mức nhất định thì số tiền giảm giá của hàng hoá đã bán được tính điều chỉnh trên hoá đơn bán hàng hoá, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trên hoá đơn phải ghi rõ số hóa đơn và số tiền được giảm giá”. Và ghi sổ theo các bút toán
Phản ánh giá vốn:
Nợ TK 632
Có TK 156
Phản ánh doanh thu (không hạch toán qua 521):
Nợ TK 111, 112, 131
Có TK 511
Có TK 3331(Nếu có)

Bên bán phải theo dõi chi tiết chiết khấu thương mại đã thực hiện cho từng khách hàng và từng loại hàng bán như: bán hàng (sản phẩm, hàng hoá), dịch vụ.

Theo các trường hợp trên, bên mua sẽ hạch toán:
* Nếu bên mua phân bổ được vào giá trị hàng hóa mua vào:
Nợ TK 156-giá trị từng mặt hàng đã giảm theo tỷ lệ chiết khấu
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ (Đối với doanh nghiệp nộp VAT theo phương pháp khấu trừ)
Có TK 331-Giá trị đã giảm theo chiết khấu.
* Nếu không thể phân bổ giá trị chiết khấu thương mại do hàng hoá đã xuất kho hết….thì có thể phản ánh số chiết khấu thương mại được hưởng theo bút toán
Nợ TK 331,111,112...
Có TK 152,153,156...

- Trường hợp giá trị hàng hóa trên hóa đơn bán hàng nhỏ hơn khoản chiết khấu thương mại thì được điều chỉnh giảm ở hóa đơn mua hàng lần tiếp sau.
- Các trường hơp chiết khấu thương mại nhưng không thể hiện trên hóa đơn bán hàng thì không được coi là chiết khấu thương mại; các bên lập chứng từ thu chi tiền để hạch toán kế toán và xác định thuế thu nhập doanh nghiệp theo qui định.
- Trong kỳ chiết khấu thương mại phát sinh thực tế được phản ánh vào bên Nợ TK 521”Chiết khấu thương mại”. Cuối kỳ, khoản chiết khấu thương mại được kết chuyển toàn bộ sang TK 511”Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ” Để xác định doanh thu thuần của khối lượng sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ thực tế thực hiện trong kỳ báo cáo. Kế toán ghi:
Nợ TK 511- Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ
Có TK 521 – Chiết khấu thương mại

nguồn từ: diedanketoan.net

Thứ Ba, 25 tháng 11, 2008

Vận dụng nguyên tắc thực hiện đối với ghi nhận doanh thu trong Kế toán

Ghi nhận doanh thu kế toán là một trong những vấn đề quan trọng của quá trình xác định kết quả kinh doanh. Với nguyên tắc ghi nhận doanh thu khác nhau sẽ dẫn đến kết quả hoạt động kinh doanh khác nhau. Hiện nay, nguyên tắc thực hiện đang được áp dụng phổ biến và rộng rãi nhất trong các đơn vị kế toán. Tuy nhiên, cơ sở khoa học và việc vận dụng nguyên tắc này trong thực tế còn ít được đề cập đến.
Hai vấn đề kế toán cơ bản đối với DT là ghi nhận doanh thu trong kỳ kế toán nào và mức DT được ghi nhận bằng bao nhiêu. Có ba nguyên tắc cơ bản để ghi nhận DT, đó là: nguyên tắc tiền mặt (ghi nhận DT khi thu được tiền); nguyên tắc phát sinh (ghi nhận DT tương ứng với mức tăng giá trị của sản phẩm, dịch vụ); nguyên tắc thực hiện (ghi nhận DT khi nó được thực hiện). Mỗi nguyên tắc nói trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định.

Cơ sở của nguyên tắc thực hiện

Theo nguyên tắc thực hiện, thời điểm để DT được xác định là “thực hiện” phải thỏa mãn hai điều kiện: DT đạt được và có thể xác định. Về cơ bản, doanh thu được coi là đạt được khi đơn vị kế toán hoàn thành hoặc gần như hoàn thành những công việc cần phải thực hiện đối với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ sẽ cung cấp cho khách hàng để nhận được lợi ích kinh tế tương ứng với DT; DT thu được coi là có thể xác định khi thu được tiền hàng hoặc có quyền pháp lý thu tiền tương ứng với sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ đã bán được.

DT là biểu hiện số tiền tương ứng với giá trị của sản phẩm, lao vụ, dịch vụ cung cấp cho khách hàng. Do đó, quá trình tạo ra DT của một đơn vị kế toán, đồng thời cũng chính là quá trình tạo giá trị của sản phẩm mới của chính đơn vị đó. Thông thường, những hoạt động này đối với loại hình đơn vị sản xuất bao gồm các giai đoạn: thiết kế, mua nguyên vật liệu, sản xuất sản phẩm, lưu kho sản phẩm, bán sản phẩm cho khách hàng và thu tiền.

Trong các hoạt động nói trên, theo nguyên tắc thực hiện, vào thời điểm hoạt động bán sản phẩm (giao hàng – chuyển quyền sở hữu) cho khách hàng được thực hiện là thời điểm ghi nhận DT. Việc ghi nhận DT ở những khâu trước đó đồng nghĩa với việc phá vỡ nguyên tắc thực hiện.

Việc lựa chọn hoạt động bán sản phẩm là thời điểm ghi nhận DT theo nguyên tắc thực hiện trên những căn cứ sau: tính khách quan khi xác định mức DT, tính xác thực của tài sản dùng để phân phối lợi nhuận và tính xác thực của việc ghi nhận chi phí tương ứng với doanh thu nhằm đảm bảo nguyên tắc phù hợp trong khi xác định lợi nhuận.

Tính khách quan khi xác định mức DT

Nếu như ghi nhận DT trứơc lúc bán hàng thì mức DT được xác định khó có thể đảm bảo tính khách quan do công việc này phụ thuộc rất nhiều vào ý kiến chủ quan của nhà quản lý. Trong khi đó, bán hàng là nghiệp vụ trao đổi ngang giá giữa bên bán với bên mua, mức giá bán tương ứng với DT được bên mua và bên bán thương lượng và thỏa thuận, mức DT này không phải là kết quả của ý kiến chủ quan của bên mua hoặc bên bán quyết định mà được cả 2 bên cùng thống nhất. Tính khách quan của việc xác định doanh thu được thể hiện ở chính điểm này.

Tính xác thực của tài sản.

Thời điểm bán hàng là khởi điểm của giai đoạn thanh toán đối với hàng bán đã được xác định. Bên bán có quyền yêu cầu bên mua phải thanh toán tiền hàng theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, khoản phải thu đối với khách hàng đảm bảo tiêu chuẩn được ghi nhận như là một khoản tài sản đối với đơn vị bán. Tính xác thực của tài sản đóng một vai trò quan trọng đối với phần giảm tài sản của đơn vị kế toán thông qua các nghiệp vụ phân phối lợi nhuận như cổ tức, tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên…Nếu tính xác thực của tài sản không được đảm bảo trong khi DT vẫn được báo cáo thì những nghiệp vụ phân phối lợi nhuận nói trên sẽ làm phát sinh giảm tài sản không tương ứng với tài sản thực có của đơn vị kế toán.

Tính xác thực của chi phí và tính phù hợp giữa DT và CP.

Giữa DT và CP có mối quan hệ tương ứng và phù hợp nhau trong quá trình xác định kết quả hoạt động kinh doanh. Trong trường hợp không xác định được tính chính xác CP cần phải ước tính một cách hợp lý mức CP bỏ ra tương ứng với DT đạt được. Các ước tính khác nhau sẽ cho nhiều kết quả khác nhau và làm mất đi tính khách quan và tính thích hợp của thông tin kế toán. Như vậy, cùng với việc ghi nhận DT thì phần lớn CP tương ứng với mức DT đó đã phát sinh . Vào thời điểm bán hàng, khi DT được ghi nhận thì đại bộ phận CP được coi là đã phát sinh thực tế.

Từ những căn trên, phần lớn việc ghi nhận DT dựa trên cơ sở bán hàng hay hoạt động bán hàng được thực hiện. Nói cách khác, nguyên tắc thực hiễn dẫn đến hệ quả là DT được ghi nhận theo “tiêu chuẩn bán hàng”. Tuy nhiên, hoạt động kinh doanh của các đơn vị kế toán ngày càng đa dạng và phong phú; do đó, các hoạt động bán hàng cũng mang nhiều nét đặc thù hơn đòi hỏi phải có sự vận dụng linh hoạt hơn đối với nguyên tắc thực hiện trong ghi nhận DT

Vận dụng nguyên tắc thực hiện để ghi nhận DT trong trường hợp bán hàng đặc biệt.

Bán hàng qua đại lý

Để tăng DT bán hàng thì cần thiết phải tăng các địa điểm bán hàng. Nếu chỉ bán hàng tại các điểm bán của đơn vị kế toán, DT bán hàng sẽ bị hạn chế. Khi đó, bán hàng qua các đại lý là phương thức được lựa chọn, tức là nhờ đơn vị khác bán hộ hàng hóa đồng thời thanh tóan cho bên bán hàng hộ một khoản tiền hoa hồng đại lý. Mối quan hệ này có thể được biểu diễn theo sơ đồ sau:


Bên gửi hàng bán đại lý có thể ghi nhận DT vào một trong các thời điểm sau: ngày bên đại lý bán được hàng; hoặc ngày nhận được hồ sơ thanh toán từ bên đại lý; hoặc ngày nhận được tiền bán hàng từ bên đại lý.

Nếu vận dụng theo nguyên tắc thực hiện, DT sẽ được ghi nhận vào ngày bên đại lý bán được hàng (tiêu chuẩn bán haán sẽ là ngày hàng gửi bán đại lý được xác định là tiêu thụ.

Bán hàng trả góp.

Bán hàng trả góp là phương thức bán hàng tiến hành thanh toán tiền hàng nhiều lần.. Tiền bán hàng có thể được thanh toán theo tuần, tháng quý hoặc năm. Trong trường hợp những hàng hóa có giá trị cao, bên mua khó có thể thanh toán tiền mua một lần. Trong những tình huống đó, bán hàng theo phương thức trả góp là phổ biến.

Vận dụng nguyên tắc thực hiện để ghi nhận DT trong trường hợp bán hàng trả góp, DT sẽ được ghi nhận vào ngày hàng hóa được giao cho bên mua. Như vậy, DT bán hàng trả góp được ghi nhận trên cơ sở tiêu chuẩn bán hàng. Theo đó, bán hàng trả góp và bán hàng thông thường không có sự khác biệt.

TS Lê Văn Liên –THS Nguyễn Thị Hồng Vân (Theo Tạp chí Kế toán)

Tapchiketoan.com

Kế toán ngân hàng và kế toán tài chính DN: có gì khác?

Các nước phát triển thường xây dựng một hệ thống kế toán mở, có nghĩa là chỉ dựa trên các nguyên tắc cơ bản nhất và không có quy định chặt chẽ nào cho từng tiểu khoản và từng lĩnh vực kinh doanh. Nhưng hệ thống kế toán Việt Nam lại đi vào quy định chi tiết cho từng tiểu khoản cụ thể và cho từng lĩnh vực kinh doanh khác nhau như kế toán ngân hàng và kế toán tài chính doanh nghiệp (DN).
Hệ thống kế toán ngân hàng Việt Nam chính thức ra đời từ năm 1951 còn hệ thống kế toán tài chính DN được hình thành sau đó ba năm, năm 1954 và được hoàn thiện, phát triển song song cho tới nay. Về cơ bản, hai hệ thống kế toán giống nhau về nguyên tắc, nội dung và phương pháp hạch toán theo các chuẩn mực kế toán và Luật Kế toán đã ban hành. Tuy nhiên, cách sử dụng thuật ngữ và hình thức trình bày khác nhau khiến cho người đọc có cảm giác thấy hai lĩnh vực kế toán có sự khác nhau. Từ đó, việc vận dụng giữa hai lĩnh vực kế toán này trở nên khó khăn đối với người học, người làm công tác kế toán. Có thực tế là một người học kế toán tài chính DN thì gặp nhiều khó khăn khi làm kế toán ngân hàng và ngược lại. Để có thể làm việc được ở hai lĩnh vực này, người làm công tác kế toán phải học kế toán cả hai lĩnh vực, dẫn đến tiêu tốn cả thời gian và tiền của. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng một hệ thống kế toán thống nhất để có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực kinh doanh khác nhau?

Có thể nói, kế toán tài chính DN và kế toán ngân hàng đều tuân thủ những nguyên tắc kế toán cơ bản, bao gồm cơ sở dồn tích, hoạt động liên tục, giá gốc, phù hợp, nhất quán, thận trọng, trọng yếu. Về nguyên tắc hạch toán, hai hệ thống kế toán cũng sử dụng phương pháp ghi Nợ - Có để phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh; sử dụng kết cấu tài khoản chữ T; nguyên tắc ghi Nợ trước, Có sau, Nợ - Có cân bằng nhau; xác định tính số dư trên các TK tài sản và nguồn vốn, nguồn vốn nợ phải trả và vốn chủ sở hữu; nguyên tắc phản ánh các nghiệp vụ kinh tế vào tài khoản tài sản và tài khoản nguồn vốn.

Về phương pháp luân chuyển chứng từ, hai hệ thống kế toán đều tuân thủ theo hai loại chứng từ: chứng từ bắt buộc và chứng từ hướng dẫn và tuân thủ theo các bước: lập chứng từ, kiểm tra chứng từ, xử lý, ghi sổ, lưu trữ chứng từ. Tổ chức bộ máy kế toán cũng theo ba hình thức (phân tán, tập trung, vừa tập trung vừa phân tán)

Về hình thức kế toán áp dụng, đều bao gồm kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp theo năm hình thức: Nhật ký Sổ Cái, Nhật ký chứng từ, Chứng từ Ghi sổ, Sổ nhật kí chung, hình thức ghi bằng máy tính. Tuy nhiên, hệ thống ngân hàng thường sử dụng chứng từ ghi sổ.

Về hệ thống báo cáo, bao gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh, Lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh BCTC.

Tuy nhiên, hai hệ thống kế toán sử dụng thuật ngữ và hình thức trình bày khá nhau đã đưa đến cho người đọc thấy hai lĩnh vực kế toán này có sự khác nhau. Mặt khác, kế toán ngân hàng đã có sự khác biệt về số hiệu trong hệ thống TK so với hệ thống tài khoản của kế toán tài chính DN. Sự khác biệt này dẫn đến việc xác định kết quả kinh doanh của kế toán tài chính DN và kế toán ngân hàng cũng khác nhau, có thể thấy rõ trên sơ đồ kết quả kinh doanh của ngân hàng và DN khác.

Hai hình thức kế toán đã giống nhau cơ bản về nội dung, nhưng chưa tạo cho người học và làm công tác kế toán nhận biết được sự tương quan giữa chúng vì sử dụng các thuật ngữ khác nhau. Từ đó, việc vận dụng hai lĩnh vực kế toán này trở nên khó khăn đối với người học, người làm công tác kế toán. Có một thực tế tồn tại là một người được đào tạo về kế toán tài chính DN thì gặp nhiều khó khăn khi làm kế toán ngân hàng và ngược lại. Để khắc phục điều này, trong công tác đào tạo chuyên ngành kế toán, cần phải có những giải pháp sau:

Một là, xây dựng giáo trình mang tính thống nhất và có thể áp dụng cho tất cả các lĩnh vực kế toán các ngành. Cần đưa ra nguyên tắc, phương pháp chung nhất có thể áp dụng cho cả hai lĩnh vực. Hệ thống tài khoản nên xây dựng không quá khác biệt và xây dựng theo một quy trình nhất định.

Hai là, đưa ra những thuật ngữ chung, thống nhất khi xây dựng giáo trình.

Ba là, nội dung của chương trình phải đơn giản dễ hiểu, có thể sử dụng cho nhiều đối tượng nên hướng dẫn một cách cụ thể cho từng tình huống của các nghiệp vụ kinh tế khác nhau. Không nên trình bày một nội dung có cùng một bản chất theo các hình thức khác nhau và phù hợp với đặc điểm và yêu cầu quản lý kinh tế của Việt Nam và đảm bảo tính khoa học của kế toán thì cần thiết phải hoàn thiện hệ thống tài khoản kế toán theo một hệ thống chỉ đạo nhất quán của nhà nước.

Bốn là, không nên phân biệt ranh giới về kế toán tài chính DN và kế toán ngân hàng.

Năm là, luôn áp dụng giữa lý thuyết với thực tế để giáo trình có tính khả thi cao (có nhiều bài tập thực hành)

Sáu là, nên có quy trình giảng dạy phù hợp, phân tích nguyên lý chung của kế toán ngân hàng và kế toán tài chính DN, sau đó mới đi vào từng lĩnh vực kế toán cụ thể. Vận dụng những đặc trưng giống nhau chung một số hiêu tài khoản hay một nội dung kinh tế và chỉ thêm những nội dung khác nhau của giữa hai lĩnh vực.

THS. Đoàn Văn Đính (Tạp chí Kế toán)
nguônồn phát hành Tapchiketoan.com

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2008

DÙNG GOOGLE TALK ĐỂ ĐÀM THOẠI

Tận dung tiện ích Google Talk của Google để đàm thoại với bạn bè.
cách làm:
B1: bạn cần có một tài khoản E_mail của Google tức là Gmail.com ví dụ webthongtin@gmaiil.com
B2: bạn download tiện ích google talk về cài đặt, cài đặt xong bạn add tên E_Mail và nhập pass vào thế là xong chú ý trong khi nhập trong mục user name bạn chỉ nhập phần tên là webthongtin còn pass chính là pass của E_Mail bạn đã lập
B3: sau khi thành công các bước trên bạn sẽ nhìn thấy giao diện của phần này giống như YM, sau đó bạn add các địa chỉ E_Mail của bạn bè vào. khi người bạn của bạn đang online hay hộp thư của người này đang mở bạn click vào sendvoicemail và người kia chấp nhận trả lời và các bạn cắm tai nghe vào (chỉ cần một tai nghe có micro với giá 30.000 - 40.000). là các bạn có thể đàm thoại vô thời hạn mà ko mất một xu nào với chất lượng đàm thoại cực tốt.
Chúc bạn thành công

Thứ Sáu, 14 tháng 11, 2008

HÃY BÌNH CHỌN CHO MÃ SỐ 34



hiện nay trên WEBKKETOAN có cuộc bình chọn ảnh bé ngộ nghĩnh cho con, cháu các thành viên WKT, mình cũng là thành viên của WKT nên cũng post ảnh Cu Bill nhà mình lên tham gia và được ban tổ chức cấp mã bình chọn là 34.
NẾU bạn ghé thăm blog của tôi xin hãy bình chọn cho mã số 34 bằng cách nhắn tin:
BC 34 [số người dự đoán] gửi đến 8167 cho bé Bill nhà mình nhé. xin cảm ơn

cách up ảnh lên wkt tham gia bầu chọn cho bé

hiện nay trên webketoan.vn có cuộc thi bình chọn ảnh cho các bé ngộ nghĩnh, các ông bố là thành viên của webketoan hãy up ảnh công chúa hay hoàng tử của mình lên nhé
các thao tác để ông bố bà mẹ post ảnh công chúa và hoàng tử của mình như sau:
B1: bạn tạo một tài khoản tai trang http://register.photobucket.com/step1
ở mục username bạn chon tên truy cập tùy ý ( tốt nhất là bạn lấy trùng với tên truy cập ở webketoan, nhập pass vào và ấn next step. và điền đầy đủ thông tin như yêu cầu rồi ấn I Accept sign me up
B2: click vào choose file và tìm đến đường dẫn trong ổ cứng máy của bạn có file cần up và lưu lại ( save continue)
B3: bạn mở một cửa sổ khác và vào webketoan vào mục tham gia bầu ảnh, rồi post bài như bình thường. trong nội dung bạn hãy coppy đường link của các file ảnh đã up từ trang photobucket ( chú ý các đường link có ngay phía dưới mỗi file ảnh bạn đã up Direct Link ) rồi gửi bài bình thường trên webketoan.
chúc các bạn thành công.

Thứ Ba, 11 tháng 11, 2008

cách tạo một blog cực nhanh trên google

B1. Bạn tạo một tài khoản Email có đuôi là Gmail.com
B2. Đăng nhập trang https://www.blogger.com/start sau đó đăng nhập bằng tên tài khoản bạn vừa tạo ở B1, phần này bạn phải đặt tên cho blog của bạn, ở dòng tiêu đề bạn viết gì tùy bạn, phần địa chỉ của blog bạn đánh ngay vào tên tài khoản Gmail bạn vừa lập ở B1.
B3. là bước tạo tên cho blog của bạn. bạn điền đầy đủ các thông tin trong các tiêu đề cần thiết sau đó nhấn " tiếp tục"
sang bước tiếp theo bạn chỉ việc chọn cho mình một mẫu blog có sẵn để bạn trình bày.
chỉ 3 bước đơn giản bạn đã có một blog cho riêng mình
chúc các bạn thành công