Thứ Năm, 19 tháng 2, 2009

Các phương pháp kế toán cơ bản

Hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng một trong hai phương pháp kế toán làm nền tảng cho hệ thống kế toán: Kế toán dồn tích (Accrual basis) và Kế toán dựa trên dòng tiền (Cash basis). Chế độ kế toán Việt Nam quy định các doanh nghiệp phải hạch toán kế toán dựa trên phương pháp kế toán dồn tích nhằm đảm bảo tính Phù hợp giữa doanh thu và chi phí.

Kế toán dồn tích

Accrual basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam là Kế toán dồn tích. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách đơn giản, Accrual basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Dự thu - Dự chi. Theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán chung (VAS 01), “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền.”

Một ví dụ điển hình của phương pháp Kế toán dồn tích là hoạt động bán chịu. Doanh thu được ghi nhận vào sổ kế toán khi phát hành hoá đơn, giao hàng thay vì vào thời điểm thu được tiền. Tương tự, một khoản chi phí phát sinh và được ghi nhận khi hàng đã được đặt mua hoặc đã chấm công cho công nhân thay vì thời điểm thanh toán tiền. Do đó, điểm yếu chính của phương pháp Kế toán dồn tích đó là công ty phải trả thuế thu nhập trước khi thực nhận được tiền từ doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ.

Kế toán dựa trên dòng tiền

Cash basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, nhiều khi được hiểu và dịch sai thành “Cơ sở tiền mặt”. Thực chất, cash basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Thực thu - Thực chi tiền. Phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền là phương pháp đơn giản nhất. Theo phương pháp này thu nhập và chi phí được ghi nhận khi thực nhận tiền và thực chi tiền.

Chọn Phương pháp kế toán nào cho phù hợp

Phương pháp Kế toán dồn tích được lựa cho hầu hết các doanh nghiệp có khối lượng doanh thu cao, không phân biệt bán chịu hay bán thu tiền ngay, và có kết cấu phức tạp. Thêm vào đó, những doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có liên quan đến Hàng hoá tồn khó phải áp dụng phương pháp này; và việc áp dụng Kế toán dồn tích là thực sự cần thiết đối với những doanh nghiệp phát sinh các hoạt động bán chịu, khi đó nó sẽ đảm bảo tính Phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong một kỳ kế toán nhất định.

Phương pháp Kế toán dựa trên dòng tiền thương được áp dụng đối với những doanh nghiệp nhỏ mà hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền ra vào, đặc biệt là các doanh nghiệp dịch vụ không liên quan đến hàng hoá tồn kho. Trên thế giới, đứng trên quan điểm của thuế, một số trường hợp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Theo phương pháp này, thu nhập có thể được ghi nhận vào năm tài chính sau, trong khi chi phí hay giá vốn có thể đã được ghi nhận trước, tại thời điểm thanh toán. Do đó, nó đảm bảo nguyên tắc Thận trọng trong kế toán cũng như Thận trọng trong kinh doanh. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp này.

Kết hợp giữa Kế toán dựa trên dòng tiền và Kế toán dồn tích

Cũng như Việt Nam, tại một số nước trên thế giới, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền. Tuy nhiên, do ưu điểm là rất đơn giản, một số doanh nghiệp vẫn áp dụng phương pháp kế toán này cho việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong năm tài chính, và vào cuối năm tài chính thực hiện CÁC BÚT TOÁN ĐIỀU CHỈNH để chuyển Báo cáo tài chính thành lập-theo-kế-toán-dồn-tích.

Họ đã làm như thế nào? Trong kỳ, kế toán ghi nhận doanh thu tại thời điểm thu được tiền và chi phí tại thời điểm chi tiền. Các hoá đơn phát hành và hoá đơn chi phí phát sinh được theo dõi chi tiết ngoại bảng.

Tại thời điểm cuối năm tài chính, kế toán thống kê lại các hoá đơn bán hàng đã phát hành nhưng chưa được thanh toán, và thực hiện lập bút toán điều chỉnh tăng doanh thu và các khoản phải thu

Nợ Phải thu khách hàng
Có Doanh thu

Kế toán thống kê các hoá đơn chi phí đã phát sinh nhưng chưa thanh toán tiền, và lập bút toán điều chỉnh tăng chi phí và các khoản phải trả.

Nợ Chi phí
Có Phải trả nhà cung cấp

Như vậy, công ty vẫn đảm bảo tuân thủ theo Phương pháp Kế toán dồn tích. Thông thường các hoá đơn chưa thu tiền hoặc chưa thanh toán còn lại rất ít. Do đó, đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc hạch toán kết hợp như vậy rất thuận lợi cho công tác quản lý, đặc biệt là đối với hình thức Doanh nghiệp tư nhân, khi ông chủ là người quản lý túi tiền.


Tài liệu tham khảo:

VAS01 - Chuẩn mực chung. Quyết định 165/2002/QĐ-BTC (Ban hành 06 Chuẩn mực kế toán đợt 2).31/12/2002. Bộ Tài chính.

Lesonsky,R.(1998).Basic Accounting Principles.[Internet].Entrepreneur.Link: http://www.entrepreneur.com/money/moneymanagement/bookkeeping/article21908.html

Bản quyền:

www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:

Phan Long, CPA. (2006).Các phương pháp kế toán cơ bản. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=805]

Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ ?

Câu hỏi chuyên môn “Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong Báo cáo Lưu chuyển Tiền tệ?” trên www.kiemtoan.com.vn đã được sự hưởng ứng tích cực từ bạn đọc và các thành viên. Bài viết này nhằm trợ giúp bạn đọc và các thành viên có thể tự đưa ra câu trả lời phù hợp nhất. Bài viết dựa trên giả định rằng câu hỏi dành cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mà không dành cho các tổ chức khác như tổ chức tín dụng, doanh nghiệp công ích hay các tổ chức phi lợi nhuận khác.

Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 24 – Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002, Doanh nghiệp phải trình bày các luồng tiền trong kỳ trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo 03 loại hoạt động: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.

VAS 24 định nghĩa:

- Hoạt động kinh doanh: Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là các hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính.

- Hoạt động đầu tư: Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền.

- Hoạt động tài chính: Là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.

Cổ tức được chia, phần lợi nhuận được chia trên các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khác, không thể nằm trong luồng tiền của hoạt động tài chính. Bởi vì, cổ tức được chia không làm thay đổi quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp, nghĩa là không làm thay đổi phần “bên phải” của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến thời điểm này câu trả lời được lựa chọn nhiều nhất lại là “Hoạt động tài chính”. Nguyên nhân sai lầm có thể được dự đoán là sự nhầm lẫn giữa cổ tức được chia với cổ tức đã chia của doanh nghiệp, hoặc mọi nghiệp vụ liên quan đến cổ phiếu, cổ tức đều được phân loại vào hoạt động tài chính.

VAS 24, đoạn 22 quy định lợi nhuận, cổ tức được chia được phân loại là luồng tiền từ hoạt động đầu tư. Như vậy, trên cơ sở chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán Việt Nam (Quyết định 15), câu trả lời phù hợp là “Hoạt động đầu tư”. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với định nghĩa của VAS 24 về hoạt động đầu tư “Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền”, thì dường như quy định về cổ tức được chia của VAS 24 chưa phù hợp hoàn toàn với chính định nghĩa về hoạt động đầu tư mà VAS 24 đưa ra. Cổ tức được chia là kết quả của hoạt động đầu tư. Như vậy chúng ta cần tham khảo quy định của hệ thống kế toán quốc tế và các nước có hệ thống kế toán phát triển để có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này.

Theo quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế và các nước như Mỹ, Úc, cổ tức được chia phải được trình bày trên một dòng riêng biệt trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các chuẩn mực này quy định một cách linh hoạt. Cổ tức có thể được chia được phân loại là luồng tiền của hoạt động kinh doanh do cổ tức có thể được coi là một khoản thu nhập (income) khi tính lợi nhuận hoạt động. Cổ tức được chia có thể được phân loại là luồng tiền của hoạt động đầu tư do cổ tức có thể là kết quả của hoạt động đầu tư. Quy định linh hoạt cho phép doanh nghiệp có thể trình bày một cách hợp lý hơn báo cáo lưu chuyển tiền tệ của mình dựa trên những đánh giá và xét đoán của ban giám đốc trên cơ sở điều kiện, đặc điểm hoạt động cụ thể của chính doanh nghiệp.

Giống như VAS 24, hầu hết các chuẩn mực kế toán Việt Nam được dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Tuy nhiên, các chuẩn mực kế toán Việt Nam thường quy định một cách cụ thể và chi tiết các nội dung và yêu cầu đối với việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, các chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán tại các nước có hệ thống kế toán phát triển thường quy định một cách linh hoạt, đưa ra những phương án thay thế nhằm giúp doanh nghiệp có sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Đối với người sử dụng báo cáo tài chính trong việc ra các quyết định kinh tế, sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ khiến cho báo cáo tài chính cung cấp thông tin một cách tin cậy và phù hợp hơn. Liệu đã đến lúc các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán tại Việt Nam nên có sự sửa đổi bổ sung đối với các chuẩn mực kế toán, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính tại Việt Nam phát triển như hiện nay?


Bản quyền:

www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:

www.kiemtoan.com.vn (2007).Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ ?. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1221]

Học thuyết Keynes và suy thoái kinh tế

Cuộc Đại khủng hoảng (1929-1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ của Keynes về kinh tế học. Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi.


Nhưng Keynes lại quan sát cuộc Đại khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ.

Học thuyết Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát) của John Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng.


Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Keynes với kích cầu

Đã trải qua hơn ba thập kỷ kể từ ngày Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố: “Giờ đây, tất cả chúng ta đều là Keynesian”. Tư tưởng kích cầu bắt nguồn từ học thuyết Keynes, một lần nữa xuất hiện như là giải pháp của các chính phủ đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng.

Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã kéo dài 24 tháng (kể từ tháng 12-2007). Nguy cơ về một cuộc Đại khủng hoảng II lại lần nữa có cơ hội bùng phát.

Trong lịch sử, cuộc khủng hoảng kinh tế dài nhất nổ ra giữa những năm 1970, 1980 và kết thúc trong vòng 16 tháng. Trước tình hình này, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu bằng ngân sách nhà nước.

Tổng thống mới của Mỹ, Barack Obama dự tính dùng 819 tỉ đô la để thực hiện kích cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950, vào việc xây dựng và phát triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường học, Internet, công nghệ trong lĩnh vực năng lượng.

Các nước châu Âu đang lo lắng về nguy cơ thâm hụt ngân sách trên diện rộng kéo dài sau khủng hoảng nhưng lãnh đạo các nước trong khu vực đã đi đầu trong vấn đề kích cầu mặc dù hệ thống phúc lợi xã hội của châu Âu khá tốt và phần nào đã có hiệu ứng kích cầu.

Tương tự, ở châu Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam đều công bố thực hiện các gói kích cầu ở các quy mô khác nhau. Trung Quốc dự tính chi 586 tỉ đô la để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân bay. Việt Nam cũng có kế hoạch huy động số tiền tương đương 1-6 tỉ đô la cho nhiệm vụ kích cầu.

“Tình hình rất xấu, một lần nữa tất cả chúng ta lại là Keynesian, những Keynesian đích thực” Martin Baily, nhà kinh tế trong chính quyền cũ của Bill Clinton, cho biết. “Trong hoàn cảnh khó khăn này, chúng ta cần sử dụng bất cứ thứ vũ khí gì mà chúng ta có”.

Và những hệ lụy có thể

Không phải tất cả các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều ủng hộ lộ trình vượt khủng hoảng đang phổ biến. Bộ trưởng Tài chính Đức, một trong những nước thận trọng nhất trong việc sử dụng gói kích cầu, đã chỉ trích Thủ tướng Anh, Gordon Brown đang theo đuổi “trường phái Keynes đần độn” và lên án ông này đang “tung hứng với hàng tỉ” rồi để lại hậu quả là nợ của chính phủ cho thế hệ sau.

Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (CEPR), nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đã đề ra, mức thâm hụt ngân sách có thể lên tới 12%, gây mất cân đối nghiêm trọng cho nên kinh tế. Các nhà kinh tế trên thế giới cũng cho rằng thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới việc lãi suất tăng, đầu tư vào các khu vực tư nhân (khu vực có hiệu quả sử dụng vốn cao, từ đó có thể cải thiện tình hình xã hội) giảm.

Trong quá khứ, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã áp dụng chính sách kích cầu, tạo ra hàng triệu việc làm trong thời kỳ đại suy thoái nhưng cũng không tránh khỏi việc lãng phí tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn chậm tiến độ và vượt dự toán như dự án đường cao tốc Big Dig ở Boston đã phải mất hơn 20 năm mới hoàn thành, vượt dự toán 5 lần. Nhật cũng đã lãng phí tiền đầu tư vào các sân bay ít dùng, cầu đường dẫn đến các đảo ít người.

Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó.

Ông Jurgen Stark, thành viên Hội đồng điều hành Ngân hàng trung ương châu Âu, trước đây từng là Phó tổng giám đốc Bundesbank (Ngân hàng trung ương Đức) đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ thất bại kích cầu có thể lặp lại giống như những năm 70. “Tôi thật tình không thể biết liệu các chính sách tài khóa tùy tiện lần này có thể mang lại hiệu quả trong khi nó đã chứng tỏ kém hiệu quả ở những lần trước”.

Kích cầu có phải “thuốc tiên”?

Suy cho cùng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này bắt nguồn từ Mỹ với nguyên nhân chủ yếu là do chính hệ thống tài chính và các chính sách tài chính, tiền tệ với nhiều “mục tiêu” khác nhau của Mỹ để phục vụ cho chính nước Mỹ gây ra.

Bùng nổ kinh tế do chi tiêu của chính phủ tăng, do lãi suất thấp kéo dài nhiều năm mà Alan Greenspan là kiến trúc sư trưởng, do tăng trưởng tín dụng đạt mức kỷ lục kéo theo sự ra đời của các sản phẩm phái sinh nhằm chuyển nhượng rủi ro phát triển chóng mặt (CDO, MBA, ABS), hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động của một mô hình ngân hàng mới (ngân hàng đầu tư) khá lỏng lẻo, kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa thị trường tài chính thế giới đã đưa nền kinh tế thế giới đến bờ vực của suy thoái.

Như vậy, khôi phục kinh tế chính là khôi mục niềm tin của người dân Mỹ vào hệ thống tài chính, chính trị của đất nước họ. Hay nói như TS. Nguyễn Đức Thành, có lẽ chúng ta phải bắt mạch đúng căn bệnh hiện nay của từng nền kinh tế chứ không phải đi tìm liều “thuốc tiên” để chữa bách bệnh cho mọi người. Chính vì vậy, mà người dân Mỹ đã đặt nhiều kỳ vọng vào tổng thống mới Barack Obama vì sự thay đổi của nước Mỹ.

Trong hai cuốn sách mới xuất bản của Samuelson và Krugman có tên The great inflation and its aftermath (Cuộc đại lạm phát và hệ lụy) và The return of depression economics and the crisis of 2008 (Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và cuộc khủng hoảng 2008), các tác giả cũng cho rằng kinh tế học nên được nhìn nhận là một bộ môn nghệ thuật xã hội hơn là khoa học. Tốc độ hồi phục kinh tế có thể sẽ không phụ thuộc vào những con số như lãi suất hay quy mô gói kích cầu mà nó phụ thuộc vào tâm lý.

kiemtoan.com.vn
(Theo thesaigontimes.vn