Thứ Năm, 31 tháng 12, 2009
Thứ Ba, 24 tháng 11, 2009
Hướng dẫn kê khai thuế GTGT, thuế TNDN cho năm 2009
Tổng cục Thuế hướng dẫn kê khai số thuế TNDN, thuế GTGT được giảm theo các Thông tư nêu trên như sau :
1. Kê khai số thuế TNDN được giảm thuế theo Thông tư số 03/2009/TT-BTC và Thông tư số 85/2009/TT-BTC:
Việc hướng dẫn kê khai thuế TNDN được giảm đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC, Thông tư số 85/2009/TT-BTC và Công văn số 1806/BTC-CST ngày 18/2/2009 của Bộ Tài chính.
Trường hợp người nộp thuế sử dụng phần mềm ứng dụng hỗ trợ kê khai (HTKK) thì ghi tay nội dung bổ sung sau khi đã in ra tờ khai mã vạch bằng giấy tương ứng.
2. Kê khai số thuế GTGT được giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT theo Thông tư số 13/2009/TT-BTC và Thông tư số 85/2009/TT-BTC:
Theo hướng dẫn tại Điểm 4 Điều 2 Thông tư số 85/2009/TT-BTC nêu trên thì: “Khi kê khai thuế GTGT người nộp thuế kê khai vào Bảng kê hoá đơn chứng từ hàng hoá, dịch vụ bán ra (mẫu số 01-1/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC) ở dòng Hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5% (ghi rõ vào cột “Ghi chú” trong Bảng kê là “đã giảm 50%”)”.
Do vậy, trường hợp người nộp thuế có hàng hoá, dịch vụ bán ra được giảm thuế GTGT theo hướng dẫn tại Thông tư số 13/2009/TT-BTC thì thực hiện kê khai như hướng dẫn tại Thông tư số 85/2009/TT-BTC nêu trên kể từ ngày Thông tư số 85/2009/TT-BTC có hiệu lực thi hành.
Thuế GTGT và doanh số bán hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng được giảm 50% mức thuế suất được tổng hợp cùng thuế GTGT và doanh số bán hàng hoá, dịch vụ khác thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 5% (nếu có) sau đó được tổng hợp lên chỉ tiêu [30] và [31] trên Tờ khai thuế GTGT (mẫu số 01/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC).
Trường hợp người nộp thuế sử dụng phần mềm ứng dụng HTKK thì giá trị hàng hóa, dịch vụ và thuế GTGT của nhóm hàng hóa, dịch vụ có thuế suất 10% được giảm 50% mức thuế suất được tự động tổng hợp lên chỉ tiêu [30] và [31] trên Tờ khai thuế GTGT.
1. Kê khai số thuế TNDN được giảm thuế theo Thông tư số 03/2009/TT-BTC và Thông tư số 85/2009/TT-BTC:
Việc hướng dẫn kê khai thuế TNDN được giảm đã được hướng dẫn cụ thể tại Thông tư số 03/2009/TT-BTC, Thông tư số 85/2009/TT-BTC và Công văn số 1806/BTC-CST ngày 18/2/2009 của Bộ Tài chính.
Trường hợp người nộp thuế sử dụng phần mềm ứng dụng hỗ trợ kê khai (HTKK) thì ghi tay nội dung bổ sung sau khi đã in ra tờ khai mã vạch bằng giấy tương ứng.
2. Kê khai số thuế GTGT được giảm 50% mức thuế suất thuế GTGT theo Thông tư số 13/2009/TT-BTC và Thông tư số 85/2009/TT-BTC:
Theo hướng dẫn tại Điểm 4 Điều 2 Thông tư số 85/2009/TT-BTC nêu trên thì: “Khi kê khai thuế GTGT người nộp thuế kê khai vào Bảng kê hoá đơn chứng từ hàng hoá, dịch vụ bán ra (mẫu số 01-1/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC) ở dòng Hàng hoá, dịch vụ chịu thuế suất 5% (ghi rõ vào cột “Ghi chú” trong Bảng kê là “đã giảm 50%”)”.
Do vậy, trường hợp người nộp thuế có hàng hoá, dịch vụ bán ra được giảm thuế GTGT theo hướng dẫn tại Thông tư số 13/2009/TT-BTC thì thực hiện kê khai như hướng dẫn tại Thông tư số 85/2009/TT-BTC nêu trên kể từ ngày Thông tư số 85/2009/TT-BTC có hiệu lực thi hành.
Thuế GTGT và doanh số bán hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng được giảm 50% mức thuế suất được tổng hợp cùng thuế GTGT và doanh số bán hàng hoá, dịch vụ khác thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 5% (nếu có) sau đó được tổng hợp lên chỉ tiêu [30] và [31] trên Tờ khai thuế GTGT (mẫu số 01/GTGT ban hành kèm theo Thông tư số 60/2007/TT-BTC).
Trường hợp người nộp thuế sử dụng phần mềm ứng dụng HTKK thì giá trị hàng hóa, dịch vụ và thuế GTGT của nhóm hàng hóa, dịch vụ có thuế suất 10% được giảm 50% mức thuế suất được tự động tổng hợp lên chỉ tiêu [30] và [31] trên Tờ khai thuế GTGT.
Đối tượng và phương pháp hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh xây lắp
1. Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất.
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp là phạm vi giới hạn chi phí sản xuất xây lắp cần được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành.
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp, trước hết phải căn cứ vào các yếu tố tính chất sản xuất và qui trình công nghệ sản xuất giản, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý, đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các loại chi phí được tập hợp trong một thời gian nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình, hoặc có thể là đơn đặt hàng, bộ phận thi công hay từng giai đoạn công việc. Tuy nhiên trên thực tế các đơn vị xây lắp thường hạch toán chi phí theo công trình, hạng mục công trình.
Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp theo đúng đối tượng đã được qui định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời.
2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phương pháp sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giới hạn của mỗi đối tượng kế toán chi phí. Trong các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu dùng các phương pháp tập hợp chi phí sau:
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ cho đơn đặt hàng đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công: phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán. Đối tượng hạch toán chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ đội sản xuất hay các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được tập hợp theo từng đối tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, mỗi đối tượng có thể áp dụng một hoặc một số phương pháp hạch toán trên. Nhưng trên thực tế có một số yếu tố chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải tiến hành phân bổ các khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý cho từng đối tượng.
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp là phạm vi giới hạn chi phí sản xuất xây lắp cần được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành.
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp, trước hết phải căn cứ vào các yếu tố tính chất sản xuất và qui trình công nghệ sản xuất giản, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý, đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các loại chi phí được tập hợp trong một thời gian nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình, hoặc có thể là đơn đặt hàng, bộ phận thi công hay từng giai đoạn công việc. Tuy nhiên trên thực tế các đơn vị xây lắp thường hạch toán chi phí theo công trình, hạng mục công trình.
Hạch toán chi phí sản xuất xây lắp theo đúng đối tượng đã được qui định hợp lý có tác dụng phục vụ tốt cho việc tăng cường quản lý chi phí sản xuất và phục vụ cho công tác tính giá thành sản phẩm được kịp thời.
2. Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất.
Phương pháp kế toán tập hợp chi phí sản xuất là phương pháp sử dụng để tập hợp và phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giới hạn của mỗi đối tượng kế toán chi phí. Trong các doanh nghiệp xây lắp chủ yếu dùng các phương pháp tập hợp chi phí sau:
- Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất theo công trình, hạng mục công trình: chi phí sản xuất liên quan đến công trình, hạng mục công trình nào thì tập hợp cho công trình, hạng mục công trình đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn đặt hàng: các chi phí sản xuất phát sinh liên quan đến đơn đặt hàng nào sẽ được tập hợp và phân bổ cho đơn đặt hàng đó. Khi đơn đặt hàng hoàn thành, tổng số chi phí phát sinh theo đơn đặt hàng kể từ khi khởi công đến khi hoàn thành là giá thành thực tế của đơn đặt hàng đó.
- Phương pháp hạch toán chi phí theo đơn vị hoặc khu vực thi công: phương pháp này thường được áp dụng trong các doanh nghiệp xây lắp thực hiện khoán. Đối tượng hạch toán chi phí là các bộ phận, đơn vị thi công như tổ đội sản xuất hay các khu vực thi công. Trong từng đơn vị thi công lại được tập hợp theo từng đối tượng tập hợp chi phí như hạng mục công trình.
Trong các doanh nghiệp xây lắp, mỗi đối tượng có thể áp dụng một hoặc một số phương pháp hạch toán trên. Nhưng trên thực tế có một số yếu tố chi phí phát sinh liên quan đến nhiều đối tượng, do đó phải tiến hành phân bổ các khoản chi phí này một cách chính xác và hợp lý cho từng đối tượng.
Thứ Tư, 21 tháng 10, 2009
CÁCH HẠCH TÓAN CHÊNH LỆCH TỶ GIÁ HỐI ĐÓAI
Hỏi: Công ty em vừa được kiểm toán, khi công ty kiểm toán vào thì có đề nghị cty em điều chỉnh lại lợi nhuận sau thuế phải trừ đi khoản đánh giá lại ngoại tệ cuối năm nhưng lại không tư vấn rõ ràng. Em không thể phân biệt được khhi nào thì dùng TK 413, khi nào thì dùng luôn tài khoản doanh thu và chi phí hoạt động tài chính (TK635, TK 515). Tại sao khi phát sinh chênh lệch thì lúc có thể là chi phí tính thuế. lúc lại không? Mong ban quan trị giúp em. (có thể bỏ qua hoạt động XDCB ạ, vì em không làm trong lĩnh vực đó)
trả lời: Tài khoản 413- chênh lệch tỷ giá hối đoái có hai tài khoản cấp hai, đó là TK 4131- Chênh lệch tỷ giá hối đoái đánh giá lại cuối năm tài chính và TK 4132- chênh lệch tỷ giá hối đoái trong giai đoạn đầu tư XDCB.
Theo quyết định 15 của bộ tài chính thì:
"Doanh nghiệp chỉ phản ánh các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái vào TK413 trong cách trường hợp:
- chênh lệch tỷ giá hối đôái đã thực hiện và các chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại vào cuối năm tài chính, của hoạt động XDCB trong giai đoạn trước hoạt động của doanh nghiệp mới thành lập.
- Khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại cuối năm tài chính của hoạt động sản xuất kinh doanh"
Bởi vậy, trong kỳ, khi có phát sinh về chênh lệch tỷ giá hối đoái, em không được sử dụng tài khoản 413 mà sử dụng ngay sang tài khoản 635 hoặc tài khoản 515.
Em chỉ được sử dụng tài khoản 413 khi phát sinh chênh lệch đánh giá lại cuối năm tài chính hoặc trong giai đoạn XDCB.
Theo thông tư Số: 134/2007/TT-BTC có ghi:
"2.23. Khoản lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính; lỗ chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản (giai đoạn trước hoạt động sản xuất kinh doanh) sẽ không được tính là chi phí hợp lý."
và:
"7. Thu nhập về chênh lệch tỷ giá hối đoái thực tế phát sinh trong kỳ của hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được tính là doanh thu chịu thuế không bao gồm lãi chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính, lãi chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn trước hoạt động sản xuất kinh doanh)."
Tức là khi phát sinh chênh lệch tỷ giá hối đoái trong kỳ thì sẽ hạch toán vào doanh thu- chi phí, còn khi em sử dụng tài khoản 413 vào cuối năm tài chính thì sẽ không được tính thuế.
Công ty em hiện đang trong giai đoạn Đầu tư, chưa đi vào hoạt động.khoản chênh lệch lãi ngân hàng em đã đưa vào TK 4132 "Chênh lệch tỷ giá hối đoái trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ bản" em đã treo vào TK 4132 để khi cty đi vào hoạt động mới KC qua 515 (hoặc 635 nếu lỗ) e làm như vậy có đúng ko ạ
Bạn làm vậy là đúng rồi đó.
Tài khoản 4131: Phản ánh số chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính của hoạt động kinh doanh kể cả hoạt động đầu tư XDCB
Tài Khoản 4132: Phản ánh số chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh và số chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại cuối năm tài chính của các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư XDCB ( giai đoạn trước hoạt động).
Khi kết thúc hđ đầu tư XDCB thì k/c
Nếu ps lãi:
Nợ TK 4132
Có TK 3387-Nếu phân bổ dần ( tối đa 5 năm)
Có TK 515
Nếu ps Lỗ
Nợ TK 635
Nợ TK 242- Nếu phân bổ dần
Có 4312
trả lời: Tài khoản 413- chênh lệch tỷ giá hối đoái có hai tài khoản cấp hai, đó là TK 4131- Chênh lệch tỷ giá hối đoái đánh giá lại cuối năm tài chính và TK 4132- chênh lệch tỷ giá hối đoái trong giai đoạn đầu tư XDCB.
Theo quyết định 15 của bộ tài chính thì:
"Doanh nghiệp chỉ phản ánh các khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái vào TK413 trong cách trường hợp:
- chênh lệch tỷ giá hối đôái đã thực hiện và các chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại vào cuối năm tài chính, của hoạt động XDCB trong giai đoạn trước hoạt động của doanh nghiệp mới thành lập.
- Khoản chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại cuối năm tài chính của hoạt động sản xuất kinh doanh"
Bởi vậy, trong kỳ, khi có phát sinh về chênh lệch tỷ giá hối đoái, em không được sử dụng tài khoản 413 mà sử dụng ngay sang tài khoản 635 hoặc tài khoản 515.
Em chỉ được sử dụng tài khoản 413 khi phát sinh chênh lệch đánh giá lại cuối năm tài chính hoặc trong giai đoạn XDCB.
Theo thông tư Số: 134/2007/TT-BTC có ghi:
"2.23. Khoản lỗ chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính; lỗ chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản (giai đoạn trước hoạt động sản xuất kinh doanh) sẽ không được tính là chi phí hợp lý."
và:
"7. Thu nhập về chênh lệch tỷ giá hối đoái thực tế phát sinh trong kỳ của hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ được tính là doanh thu chịu thuế không bao gồm lãi chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính, lãi chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng cơ bản giai đoạn trước hoạt động sản xuất kinh doanh)."
Tức là khi phát sinh chênh lệch tỷ giá hối đoái trong kỳ thì sẽ hạch toán vào doanh thu- chi phí, còn khi em sử dụng tài khoản 413 vào cuối năm tài chính thì sẽ không được tính thuế.
Công ty em hiện đang trong giai đoạn Đầu tư, chưa đi vào hoạt động.khoản chênh lệch lãi ngân hàng em đã đưa vào TK 4132 "Chênh lệch tỷ giá hối đoái trong giai đoạn đầu tư xây dựng cơ bản" em đã treo vào TK 4132 để khi cty đi vào hoạt động mới KC qua 515 (hoặc 635 nếu lỗ) e làm như vậy có đúng ko ạ
Bạn làm vậy là đúng rồi đó.
Tài khoản 4131: Phản ánh số chênh lệch tỷ giá hối đoái do đánh giá lại các khoản mục tiền có gốc ngoại tệ cuối năm tài chính của hoạt động kinh doanh kể cả hoạt động đầu tư XDCB
Tài Khoản 4132: Phản ánh số chênh lệch tỷ giá hối đoái phát sinh và số chênh lệch tỷ giá do đánh giá lại cuối năm tài chính của các khoản mục tiền tệ có gốc ngoại tệ của hoạt động đầu tư XDCB ( giai đoạn trước hoạt động).
Khi kết thúc hđ đầu tư XDCB thì k/c
Nếu ps lãi:
Nợ TK 4132
Có TK 3387-Nếu phân bổ dần ( tối đa 5 năm)
Có TK 515
Nếu ps Lỗ
Nợ TK 635
Nợ TK 242- Nếu phân bổ dần
Có 4312
Thứ Hai, 19 tháng 10, 2009
Hạch toán mua TSCĐ trả góp qua ngân hàng
Khi mua xe, bên NH đã đưa cho bạn hóa đơn thì bạn hạch toán bình thường, lệ phí trước bạ bạn cộng vào nguyên giá. bên mình cũng mua qua vay vốn NH, mình hạch toán:
- Khi có đủ chứng từ và nhận TS:
Nợ 211
Nợ 133
Có 112 : số tiền cty đã trả
Có 341 : số tiền cty vay của NH
- Hàng tháng phải trả cả gốc và lãi ghi:
Nợ 341 : số tiền gốc
Nợ 635 : số tiền lãi
Có 112
tại ngày kết thúc niên độ, chuyển nợ dài hạn thành dài hạn đến hạn trả đối với khoản tiền phải trả trong vòng một năm.
Theo hợp đồng, nếu số sẽ phải trả cho NH năm tới (năm2008) là 100tr thì tại thời điểm 31/12/2007 bạn phải hạch toán:
Nợ 341 /Có 315: 100tr
Trong năm 2008, khi thanh toán tiền:
Nợ 315/Có111: 100tr
1: N211:1000tr
N133:100tr
N242:300tr
C331:1400tr
2:N331:500tr/C112:500tr
3:Định kỳ trả tiền cho người bán
3a: trả tiền cả gốc và lãi: N331:25tr/C111,112:25tr
3b: tính vào Chi phí sỗ lãi trả chậm: N635:8.3tr/C242:8.3tr
Công ty có vốn đầu tư nước ngoài mua trả góp một số công cụ sản xuất có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài (hơn 1 năm). Chúng tôi phải hạch toán như thế nào, có thể sử dụng tài khoản 242 để phân bổ dần vào tài khoản 635 không?
trả lời
Đối với các khoản chi phí liên quan đến nhiều kỳ hoạt động kinh doanh hoặc chi phí trả trước thì được tập hợp vào tài khoản 242 – Chi phí trả trước dài hạn và được phân bổ dần trong thời gian 3 năm. Theo chế độ kế toán hiện hành hướng dẫn phương pháp hạch toán kế toán tài khoản 242 thì chi phí trả trước dài hạn bao gồm lãi mua hàng trả chậm, trả góp. Đối với công cụ, dụng cụ xuất dùng một lần có giá trị lớn và thời gian sử dụng trên 1 năm thì được ghi nhận vào tài khoản 242 và phân bổ dần vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Như vậy, trường hợp công ty mua hàng trả góp, nếu số lượng hàng hóa mua trả góp còn tồn kho nhiều thì công ty hạch toán tiền lãi trả góp vào tài khoản 242 để phân bổ dần vào tài khoản 635 phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Theo hướng dẫn tại điểm 3, mục III Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 của Bộ Tài chính, công cụ sản xuất có thời gian sử dụng trên 1 năm có thể phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ theo một trong hai phương pháp phân bổ sau: phân bổ hai lần (phân bổ lần đầu bằng 50% giá trị công cụ, dụng cụ xuất dùng và phân bổ lần hai khi báo hỏng, báo mất hoặc hết thời gian sử dụng theo quy định) hoặc phân bổ nhiều lần.
- Khi có đủ chứng từ và nhận TS:
Nợ 211
Nợ 133
Có 112 : số tiền cty đã trả
Có 341 : số tiền cty vay của NH
- Hàng tháng phải trả cả gốc và lãi ghi:
Nợ 341 : số tiền gốc
Nợ 635 : số tiền lãi
Có 112
tại ngày kết thúc niên độ, chuyển nợ dài hạn thành dài hạn đến hạn trả đối với khoản tiền phải trả trong vòng một năm.
Theo hợp đồng, nếu số sẽ phải trả cho NH năm tới (năm2008) là 100tr thì tại thời điểm 31/12/2007 bạn phải hạch toán:
Nợ 341 /Có 315: 100tr
Trong năm 2008, khi thanh toán tiền:
Nợ 315/Có111: 100tr
1: N211:1000tr
N133:100tr
N242:300tr
C331:1400tr
2:N331:500tr/C112:500tr
3:Định kỳ trả tiền cho người bán
3a: trả tiền cả gốc và lãi: N331:25tr/C111,112:25tr
3b: tính vào Chi phí sỗ lãi trả chậm: N635:8.3tr/C242:8.3tr
Công ty có vốn đầu tư nước ngoài mua trả góp một số công cụ sản xuất có giá trị lớn và thời gian sử dụng lâu dài (hơn 1 năm). Chúng tôi phải hạch toán như thế nào, có thể sử dụng tài khoản 242 để phân bổ dần vào tài khoản 635 không?
trả lời
Đối với các khoản chi phí liên quan đến nhiều kỳ hoạt động kinh doanh hoặc chi phí trả trước thì được tập hợp vào tài khoản 242 – Chi phí trả trước dài hạn và được phân bổ dần trong thời gian 3 năm. Theo chế độ kế toán hiện hành hướng dẫn phương pháp hạch toán kế toán tài khoản 242 thì chi phí trả trước dài hạn bao gồm lãi mua hàng trả chậm, trả góp. Đối với công cụ, dụng cụ xuất dùng một lần có giá trị lớn và thời gian sử dụng trên 1 năm thì được ghi nhận vào tài khoản 242 và phân bổ dần vào chi phí sản xuất kinh doanh.
Như vậy, trường hợp công ty mua hàng trả góp, nếu số lượng hàng hóa mua trả góp còn tồn kho nhiều thì công ty hạch toán tiền lãi trả góp vào tài khoản 242 để phân bổ dần vào tài khoản 635 phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Theo hướng dẫn tại điểm 3, mục III Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 của Bộ Tài chính, công cụ sản xuất có thời gian sử dụng trên 1 năm có thể phân bổ vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ theo một trong hai phương pháp phân bổ sau: phân bổ hai lần (phân bổ lần đầu bằng 50% giá trị công cụ, dụng cụ xuất dùng và phân bổ lần hai khi báo hỏng, báo mất hoặc hết thời gian sử dụng theo quy định) hoặc phân bổ nhiều lần.
Thứ Bảy, 18 tháng 4, 2009
Mối quan hệ giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính, kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết
Quan điểm của nhiều chuyên gia kế toán cho rằng, kế toán trong nền kinh tế thị trường được phân chia thành bốn bộ phận: lý thuyết hạch toán kế toán, kế toán tài chính, kế toán quản trị và kiểm toán.
Trong đó, kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp. Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?. Hai loại kế toán này có mối quan hệ với nhau như thế nào?. Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay không?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kế toán tài chính và kế toán quản trị, để cùng các bạn và những người quan tâm về khoa học kế toán hiểu rõ bản chất và mối quan hệ giữa các bộ phận kế toán tôi xin trao đổi vài nét về vấn đề này.
1. Định nghĩa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại:
Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.
Ví dụ:
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng?
Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bàii toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.
Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
2. Để hiễu rõ được mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
2.1. Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.2. Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
* Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
- Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định.
Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).
3. Có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế toán chi tiết không?
Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các "thuật ngữ" trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằn trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.
Trong đó, kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp. Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?. Hai loại kế toán này có mối quan hệ với nhau như thế nào?. Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay không?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kế toán tài chính và kế toán quản trị, để cùng các bạn và những người quan tâm về khoa học kế toán hiểu rõ bản chất và mối quan hệ giữa các bộ phận kế toán tôi xin trao đổi vài nét về vấn đề này.
1. Định nghĩa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại:
Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.
Ví dụ:
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng?
Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bàii toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.
Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
2. Để hiễu rõ được mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
2.1. Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.2. Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
* Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
- Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định.
Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).
3. Có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế toán chi tiết không?
Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các "thuật ngữ" trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằn trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.
Thứ Hai, 6 tháng 4, 2009
KGB Archive nen file manh me
KGB Archive nen file manh me
Friday, 16. March 2007, 10:45:28
Chương Trình, Tiện Ích Máy tính
KGB nén File từ 450MB còn 1.43MB rất tiện
--------------------------------------------------------------------------------
Nếu các bạn đều biết UHA hay 7 ZIP là 2 phần mềm nổi tiếng có khả năng nén file mạnh nhất hơn WinZip hay WinRAR nhiều nhưng so với KGB vừa mới có phiên bản mới nhất 1.2 trên mạng lại không thấm thía gì:
Nó có thể làm chuyện bạn khó thể nào tin nổi là 450MB của phiên bản Office 12 trên 1 CD chỉ còn có 1.47MB rất tiện để chia sẻ file trên mạng giúp bạn bè download về dễ dàng nhất.
I) Bạn có thể tải về phần mềm KBG từ đâu và sử dụng nó như thế nào:
KGB là phần mềm miễn phí của người Nga tên là Tomekpawlak , có thể tải về file KGB_Archiver_2beta1_src.zip , version 2.0 chỉ có 2.3MB từ link này như sau:
http://files.myopera.com/hieu_bf/files/KGB_Archiver_2beta1.msi
Cài trong winXP nó sẽ tích hợp vào Explorer và bạn có thể sử dụng ngay bằng nút chuột phải với bất cứ file nào ờ đâu trong Explorer khi bạn cần nén lại file ấy để gửi đi qua mạng .
Bạn cũng có thể dùng ngay 2 chương trình qua icon KGB compressor hoặc là KGB decompressor . Cứ click vào icon mà dùng và cứ chọn mức độ nén cao nhất (reme) làm sẽ nhiều tiếng hay chỉ cao (high) .. normal
II) Những điều cần lưu ý khi sử dụng phần mềm này:
1) Do khả năng nén rất mạnh của KGB như vậy nên nó đòi hỏi cấu hình máy tính rất mạnh: Máy của bạn phải ít ra là Pentium 4 với RAM 256MB .
2) Bạn có thể vào trang web tác giả để biết khả năng nén file khủng khiếp tuyệt vời của nó với từng phần mềm nén rất mạnh khác như RAR 7zip, UHA.. trên các dạng file khác , tóm tắt lại như sau:
a) File TXT dạng nguyên thuỷ là 19990KB( 100o/o) , nếu dùng ZIP còn 4922KB
( 24.7o/o); dùng Win RAR còn lại 3220KB ( 16.2o/o) , UHA còn 3171KB( 15.7o/o) 7ZIP 2726KB ( 13.7o/o ) nhưng dùng KGB nén ở mức trung bình kích thước chỉ còn là 1543KB ( 7.8o/o)
b) File JPEG: nếu file nguyên thuỷ 8096KB ( 100o/o) , nếu bạn dùng ZIP nén lại còn 7582KB ( (93,6o/o ) ; dùng Win RAR là 7528KB ( 93o/o,) ; dùng UHA còn 7486KB ( 92,5o/o ) và KGB mạnh nhất còn 7349KB ( 90.8o/o)
b) File MP3 nguyên thuỷ 11895KB ( 100o/o) với ZIP nén còn lại 11650KB ( 97.7o/o) , RAR 11609KB ( 97.6o/o ), 7ZIP 11606KB ( 97.6o/o) UHA 11 579KB ( 97.3o/o ), KGB nén ít 11496KB ( 96.6o/o ) và nén trung bình 11361KB ( 95.5o/o ).
c) Các file exe của các ứng dụng: nếu file nguyên thuỷ 3732KB ( 100o/o) nếu ZIP còn là 1373KB ( 36.8o/o) , RAR 992KB ( 26.6o/o) ,UHA 921KB ( 24.7o/o ) 7zip 866KB ( 23.2o/o ) và KGB nén mức trung bình chỉ còn 839KB ( 22.5o./o )
.d) Các file MPEG gốc là 12077KB 100o/o, ZIP nén tối đa còn 11319KB ( 93.7o/o) Win RAR 11050KB( 91.1o/o); UHA11003KB (91.1o/o ) ; dùng 7ZIP 10955KB( 90.7o/o) và KGB nén trung bình 10872KB( 89.5o/o).
3) Đấy là bảng tóm tắt tỷ lệ nén trung bình giữa các chương trình nén với KGB và mới đây có người nén file 450MB của Office 12 CD còn 1.47MB gần 99o/o .
Đó là một file nén bằng KGB cao nhất có được từ trước tới nay.
Bạn thử tưởng tượng điều gì xảy ra khi chia sẻ file này trên mạng : rất tiện vì bạn tải về không đầy 1 phút với đường truyền ADSL Có điều bạn bung file này ra phải chờ rất lâu đấy : dù là 526MB cũng phải mất ít ra 8 tiếng: để máy tính làm việc tự động âbạn cứ ù ngủ một giấc tỉnh dậy nó vẫn làm cộng tác bung từng file cho bạn:
Có điều bạn chỉ tốn tiền điện đôi chút( do để máy tính chạy suốt đêm (còn đỡ hơn phải chờ đợi tải được bằng ADSL cũng chưa chắc được với 450MB nếu bạn không chấp nhận mua premium account của Megaupload hay Rapid share .
Nó cũng lo xa cho bạn là có sẵn nút kiểm để khi làm xong là tự động tắt máy tính (turn off your computer).
4) Kinh nghiệm cho thấy bạn không bao giờ nên để nguyên 1 file quá lớn đến hàng trăm MB như vậy nén luôn bằng KGB mà nên chia nhỏ( split ) trước lại khoảng 5-6 file: mỗi file chỉ chừng 50 MB và nén từng file náy bằng KGB sau đó gửi trên mạng sau này tải về bạn bè sẽ bung ra nhanh hơn nhiều .
5) Để tránh lỗi cho bất cứ file nào trong lúc nén quá nhiều như Office 2003.exe cần bung ra toàn bộ file exe nếu đã nén trước bằng 7zip rồi nén lại bằng KBG như thế mới hiệu quả và có tỷ lệ nén cao nhất.
6) Thử nghiệm của tác giả nén file Office 2003 .exe dạng mini bung ra toàn bộ 191MB nếu nén mức normal là 80MB lớn hơn 7zip.exe chỉ là 72MB nhưng nếu chọn làm mức cao nhất là extreme thời gian phải chờ làm xong rất lâu và kích thước sau cùng sẽ là: không đầy 2MB.
Friday, 16. March 2007, 10:45:28
Chương Trình, Tiện Ích Máy tính
KGB nén File từ 450MB còn 1.43MB rất tiện
--------------------------------------------------------------------------------
Nếu các bạn đều biết UHA hay 7 ZIP là 2 phần mềm nổi tiếng có khả năng nén file mạnh nhất hơn WinZip hay WinRAR nhiều nhưng so với KGB vừa mới có phiên bản mới nhất 1.2 trên mạng lại không thấm thía gì:
Nó có thể làm chuyện bạn khó thể nào tin nổi là 450MB của phiên bản Office 12 trên 1 CD chỉ còn có 1.47MB rất tiện để chia sẻ file trên mạng giúp bạn bè download về dễ dàng nhất.
I) Bạn có thể tải về phần mềm KBG từ đâu và sử dụng nó như thế nào:
KGB là phần mềm miễn phí của người Nga tên là Tomekpawlak , có thể tải về file KGB_Archiver_2beta1_src.zip , version 2.0 chỉ có 2.3MB từ link này như sau:
http://files.myopera.com/hieu_bf/files/KGB_Archiver_2beta1.msi
Cài trong winXP nó sẽ tích hợp vào Explorer và bạn có thể sử dụng ngay bằng nút chuột phải với bất cứ file nào ờ đâu trong Explorer khi bạn cần nén lại file ấy để gửi đi qua mạng .
Bạn cũng có thể dùng ngay 2 chương trình qua icon KGB compressor hoặc là KGB decompressor . Cứ click vào icon mà dùng và cứ chọn mức độ nén cao nhất (reme) làm sẽ nhiều tiếng hay chỉ cao (high) .. normal
II) Những điều cần lưu ý khi sử dụng phần mềm này:
1) Do khả năng nén rất mạnh của KGB như vậy nên nó đòi hỏi cấu hình máy tính rất mạnh: Máy của bạn phải ít ra là Pentium 4 với RAM 256MB .
2) Bạn có thể vào trang web tác giả để biết khả năng nén file khủng khiếp tuyệt vời của nó với từng phần mềm nén rất mạnh khác như RAR 7zip, UHA.. trên các dạng file khác , tóm tắt lại như sau:
a) File TXT dạng nguyên thuỷ là 19990KB( 100o/o) , nếu dùng ZIP còn 4922KB
( 24.7o/o); dùng Win RAR còn lại 3220KB ( 16.2o/o) , UHA còn 3171KB( 15.7o/o) 7ZIP 2726KB ( 13.7o/o ) nhưng dùng KGB nén ở mức trung bình kích thước chỉ còn là 1543KB ( 7.8o/o)
b) File JPEG: nếu file nguyên thuỷ 8096KB ( 100o/o) , nếu bạn dùng ZIP nén lại còn 7582KB ( (93,6o/o ) ; dùng Win RAR là 7528KB ( 93o/o,) ; dùng UHA còn 7486KB ( 92,5o/o ) và KGB mạnh nhất còn 7349KB ( 90.8o/o)
b) File MP3 nguyên thuỷ 11895KB ( 100o/o) với ZIP nén còn lại 11650KB ( 97.7o/o) , RAR 11609KB ( 97.6o/o ), 7ZIP 11606KB ( 97.6o/o) UHA 11 579KB ( 97.3o/o ), KGB nén ít 11496KB ( 96.6o/o ) và nén trung bình 11361KB ( 95.5o/o ).
c) Các file exe của các ứng dụng: nếu file nguyên thuỷ 3732KB ( 100o/o) nếu ZIP còn là 1373KB ( 36.8o/o) , RAR 992KB ( 26.6o/o) ,UHA 921KB ( 24.7o/o ) 7zip 866KB ( 23.2o/o ) và KGB nén mức trung bình chỉ còn 839KB ( 22.5o./o )
.d) Các file MPEG gốc là 12077KB 100o/o, ZIP nén tối đa còn 11319KB ( 93.7o/o) Win RAR 11050KB( 91.1o/o); UHA11003KB (91.1o/o ) ; dùng 7ZIP 10955KB( 90.7o/o) và KGB nén trung bình 10872KB( 89.5o/o).
3) Đấy là bảng tóm tắt tỷ lệ nén trung bình giữa các chương trình nén với KGB và mới đây có người nén file 450MB của Office 12 CD còn 1.47MB gần 99o/o .
Đó là một file nén bằng KGB cao nhất có được từ trước tới nay.
Bạn thử tưởng tượng điều gì xảy ra khi chia sẻ file này trên mạng : rất tiện vì bạn tải về không đầy 1 phút với đường truyền ADSL Có điều bạn bung file này ra phải chờ rất lâu đấy : dù là 526MB cũng phải mất ít ra 8 tiếng: để máy tính làm việc tự động âbạn cứ ù ngủ một giấc tỉnh dậy nó vẫn làm cộng tác bung từng file cho bạn:
Có điều bạn chỉ tốn tiền điện đôi chút( do để máy tính chạy suốt đêm (còn đỡ hơn phải chờ đợi tải được bằng ADSL cũng chưa chắc được với 450MB nếu bạn không chấp nhận mua premium account của Megaupload hay Rapid share .
Nó cũng lo xa cho bạn là có sẵn nút kiểm để khi làm xong là tự động tắt máy tính (turn off your computer).
4) Kinh nghiệm cho thấy bạn không bao giờ nên để nguyên 1 file quá lớn đến hàng trăm MB như vậy nén luôn bằng KGB mà nên chia nhỏ( split ) trước lại khoảng 5-6 file: mỗi file chỉ chừng 50 MB và nén từng file náy bằng KGB sau đó gửi trên mạng sau này tải về bạn bè sẽ bung ra nhanh hơn nhiều .
5) Để tránh lỗi cho bất cứ file nào trong lúc nén quá nhiều như Office 2003.exe cần bung ra toàn bộ file exe nếu đã nén trước bằng 7zip rồi nén lại bằng KBG như thế mới hiệu quả và có tỷ lệ nén cao nhất.
6) Thử nghiệm của tác giả nén file Office 2003 .exe dạng mini bung ra toàn bộ 191MB nếu nén mức normal là 80MB lớn hơn 7zip.exe chỉ là 72MB nhưng nếu chọn làm mức cao nhất là extreme thời gian phải chờ làm xong rất lâu và kích thước sau cùng sẽ là: không đầy 2MB.
Thứ Ba, 17 tháng 3, 2009
TÌM HIỂU VỀ KẾ TOÁN TSCĐ P3
IV. KẾ TÓAN HAO MÒN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
- Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
- Khấu hao tài sản cố định là sự tính tóan phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của TSCĐ hữu hình trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó.
- Giá trị phải khấu hao của TSCĐ hữu hình được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích của chúng. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại cho doanh nghiệp. Số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ, trừ khi chúng được tính vào giá trị của các tài sản khác, như: Khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho các hoạt động trong giai đoạn triển khai là một bộ phận chi phí cấu thành nguyên giá TSCĐ vô hình (theo quy định của chuẩn mực TSCĐ vô hình), hoặc chi phí khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho quá trình tự xây dựng hoặc tự chế các tài sản khác.
- Các phương pháp trích khấu hao hiện hành theo chuẩn mực kế tóan đã ban hành.
• Phương pháp khấu hao đường thẳng;
• Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần; và
• Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm.
1. Nguyên tắc trích khấu hao tài sản cố định
1.1. Mọi tài sản cố định của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao. Mức trích khấu hao tài sản cố định được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại... và tính vào chi phí khác.
1.2. Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh thì không phải trích khấu hao, bao gồm:
- Tài sản cố định thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý hộ, giữ hộ.
- Tài sản cố định phục vụ các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn,... được đầu tư bằng quỹ phúc lợi.
- Những tài sản cố định phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường xá,... mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
- Tài sản cố định khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, theo dõi các tài sản cố định trên đây như đối với các tài sản cố định dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của các tài sản cố định này (nếu có); mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá chia (:) cho thời gian sử dụng của tài sản cố định xác định theo quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Nếu các tài sản cố định này có tham gia vào hoạt động kinh doanh thì trong thời gian tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện tính và trích khấu hao vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Doanh nghiệp cho thuê tài sản cố định hoạt động phải trích khấu hao đối với tài sản cố định cho thuê.
1.4. Doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính phải trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính như tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp theo quy định hiện hành. Trường hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê được trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng.
1.5. Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được thực hiện bắt đầu từ ngày (theo số ngày của tháng) mà tài sản cố định tăng, giảm, hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh.
1.6. Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình đặc biệt, doanh nghiệp ghi nhận là tài sản cố định vô hình theo nguyên giá nhưng không được trích khấu hao.
2. Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định
2.1 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định hữu hình
2.1.1. Đối với tài sản cố định còn mới (chưa qua sử dụng), doanh nghiệp phải căn cứ vào khung thời gian sử dụng tài sản cố định quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính để xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định.
2.1.2. Đối với tài sản cố định đã qua sử dụng, thời gian sử dụng của tài sản cố định được xác định như sau:
Thời gian sử dụng của TSCĐ = (Giá trị hợp lý của TSCĐ/Giá bán của TSCĐ mới cùng lọai)*Thời gian sử dụng của TSCĐ cùng lọai (1)
(1): Phụ lục số 1 ban hành kèm theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003)
Trong đó:
Giá trị hợp lý của tài sản cố định là giá mua hoặc trao đổi thực tế (trong trường hợp mua bán, trao đổi), giá trị còn lại của tài sản cố định (trong trường hợp được cấp, được điều chuyển), giá trị theo đánh giá của Hội đồng giao nhận (trong trường hợp được cho, biếu tặng, nhận vốn góp),…
2.1.3. Trường hợp doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định khác với khung thời gian sử dụng quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ để xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định đó để Bộ Tài chính xem xét, quyết định theo ba tiêu chuẩn sau:
- Tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định theo thiết kế;
- Hiện trạng tài sản cố định (thời gian tài sản cố định đã qua sử dụng, thế hệ tài sản cố định, tình trạng thực tế của tài sản...);
- Tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định.
2.1.4. Trường hợp có các yếu tố tác động (như việc nâng cấp hay tháo dỡ một hay một số bộ phận của tài sản cố định...) nhằm kéo dài hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đã xác định trước đó của tài sản cố định, doanh nghiệp tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của tài sản cố định theo ba tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều này tại thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng thời phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng.
2.2 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định vô hình
Doanh nghiệp tự xác định thời gian sử dụng tài sản cố định vô hình nhưng tối đa không quá 20 năm. Riêng thời gian sử dụng của quyền sử dụng đất có thời hạn là thời hạn được phép sử dụng đất theo quy định
2.3 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định trong một số trường hợp đặc biệt:
- Đối với dự án đầu tư theo hình thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (B.O.T), thời gian sử dụng tài sản cố định được xác định từ thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng đến khi kết thúc dự án.
- Đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh (B.C.C) có bên nước ngoài tham gia Hợp đồng, sau khi kết thúc thời hạn của hợp đồng bên nước ngoài thực hiện chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam, thì thời gian sử dụng tài sản cố định của tài sản cố định chuyển giao được xác định từ thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng đến khi kết thúc dự án.
3. Các phương pháp trích khấu hao tài sản cố định
3.1. Nội dung của phương pháp khấu hao đường thẳng; phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh; phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm được quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
3.2. Căn cứ khả năng đáp ứng các điều kiện áp dụng quy định cho từng phương pháp trích khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp trích khấu hao phù hợp với từng loại tài sản cố định của doanh nghiệp:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng.
Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả kinh tế cao được khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao nhanh là máy móc, thiết bị; dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm; thiết bị và phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý; súc vật, vườn cây lâu năm. Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần có điều chỉnh phải thoả mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Là tài sản cố định đầu tư mới (chưa qua sử dụng);
+ Là các loại máy móc, thiết bị; dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
- Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp này là các loại máy móc, thiết bị thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm;
+ Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố định;
+ Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế.
3.3. Doanh nghiệp phải đăng ký phương pháp trích khấu hao tài sản cố định mà doanh nghiệp lựa chọn áp dụng với cơ quan thuế trực tiếp quản lý trước khi thực hiện trích khấu hao. Trường hợp việc lựa chọn của doanh nghiệp không trên cơ sở có đủ các điều kiện quy định thì cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo cho doanh nghiệp biết để thay đổi phương pháp khấu hao cho phù hợp.
3.4. Phương pháp khấu hao áp dụng cho từng tài sản cố định mà doanh nghiệp đã lựa chọn và đăng ký phải thực hiện nhất quán trong suốt quá trình sử dụng tài sản cố định đó.
4. Kế tóan khấu hao tài sản cố định
- Định kỳ trích khấu hao TSCĐ hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
Nợ TK 623: Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641: Chi phí bán hàng
Nợ TK 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Định kỳ trích khấu hao TSCĐ vô hình tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641: Chi phí bán hàng
Nợ TK 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Đơn vị nhận TSCĐ hữu hình đã sử dụng do được điều chuyển trong nội bộ tổng công ty, công ty:
Nợ TK 211: Tài sản CĐHH (Theo nguyên giá ban đầu)
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ (Số đã trích KH)
Có TK 411: Nguồn vốn kinh doanh (giá trị còn lại)
- Hao mòn TSCĐ dùng cho họat động sự nghiệp, chương trình dự án
Nợ TK 466: Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Hao mòn tài sản cố định dùng cho họat động văn hóa, phúc lợi
Nợ TK 4313: Quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
V. THANH LÝ, NHƯỢNG BÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
- Ghi giảm TSCĐ dùng cho họat động sản xuất, kinh doanh do thanh lý, nhượng bán, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Phần giá trị còn lại)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Trường hợp TSCĐ nhượng bán, thanh lý được dùng vào họat động sự nghiệp, dự án ghi:
Nợ TK 466: Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Trường hợp TSCĐ nhượng bán, thanh lý được dùng vào họat động phúc lợi ghi:
Nợ TK 4313: Quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ (giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
- Các chi phí phát sinh cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ (nếu có), ghi:
Nợ TK 811 - Chi phí khác
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)
Có các TK 111, 112, 141, 331,... (Tổng giá thanh toán).
- Phản ánh số thu nhập khác về thanh lý, nhượng bán TSCĐ:
+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Số thu nhập chưa có thuế GTGT)
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp .
+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, số thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ, ghi:
Nợ TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Tổng giá thanh toán).
- Số thuế GTGT phải nộp tính theo phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 711 - Thu nhập khác
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.
(nguồn webketoan.vn)
- Hao mòn tài sản cố định: là sự giảm dần giá trị sử dụng và giá trị của tài sản cố định do tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh, do bào mòn của tự nhiên, do tiến bộ kỹ thuật... trong quá trình hoạt động của tài sản cố định.
- Khấu hao tài sản cố định là sự tính tóan phân bổ một cách có hệ thống giá trị phải khấu hao của TSCĐ hữu hình trong suốt thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó.
- Giá trị phải khấu hao của TSCĐ hữu hình được phân bổ một cách có hệ thống trong thời gian sử dụng hữu ích của chúng. Phương pháp khấu hao phải phù hợp với lợi ích kinh tế mà tài sản đem lại cho doanh nghiệp. Số khấu hao của từng kỳ được hạch toán vào chi phí sản xuất, kinh doanh trong kỳ, trừ khi chúng được tính vào giá trị của các tài sản khác, như: Khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho các hoạt động trong giai đoạn triển khai là một bộ phận chi phí cấu thành nguyên giá TSCĐ vô hình (theo quy định của chuẩn mực TSCĐ vô hình), hoặc chi phí khấu hao TSCĐ hữu hình dùng cho quá trình tự xây dựng hoặc tự chế các tài sản khác.
- Các phương pháp trích khấu hao hiện hành theo chuẩn mực kế tóan đã ban hành.
• Phương pháp khấu hao đường thẳng;
• Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần; và
• Phương pháp khấu hao theo số lượng sản phẩm.
1. Nguyên tắc trích khấu hao tài sản cố định
1.1. Mọi tài sản cố định của doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động kinh doanh đều phải trích khấu hao. Mức trích khấu hao tài sản cố định được hạch toán vào chi phí kinh doanh trong kỳ.
Doanh nghiệp không được tính và trích khấu hao đối với những tài sản cố định đã khấu hao hết nhưng vẫn sử dụng vào hoạt động kinh doanh.
Đối với những tài sản cố định chưa khấu hao hết đã hỏng, doanh nghiệp phải xác định nguyên nhân, quy trách nhiệm đền bù, đòi bồi thường thiệt hại... và tính vào chi phí khác.
1.2. Những tài sản cố định không tham gia vào hoạt động kinh doanh thì không phải trích khấu hao, bao gồm:
- Tài sản cố định thuộc dự trữ Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý hộ, giữ hộ.
- Tài sản cố định phục vụ các hoạt động phúc lợi trong doanh nghiệp như nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà truyền thống, nhà ăn,... được đầu tư bằng quỹ phúc lợi.
- Những tài sản cố định phục vụ nhu cầu chung toàn xã hội, không phục vụ cho hoạt động kinh doanh của riêng doanh nghiệp như đê đập, cầu cống, đường xá,... mà Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý.
- Tài sản cố định khác không tham gia vào hoạt động kinh doanh.
Doanh nghiệp thực hiện việc quản lý, theo dõi các tài sản cố định trên đây như đối với các tài sản cố định dùng trong hoạt động kinh doanh và tính mức hao mòn của các tài sản cố định này (nếu có); mức hao mòn hàng năm được xác định bằng cách lấy nguyên giá chia (:) cho thời gian sử dụng của tài sản cố định xác định theo quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính.
Nếu các tài sản cố định này có tham gia vào hoạt động kinh doanh thì trong thời gian tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp thực hiện tính và trích khấu hao vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
1.3. Doanh nghiệp cho thuê tài sản cố định hoạt động phải trích khấu hao đối với tài sản cố định cho thuê.
1.4. Doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính phải trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính như tài sản cố định thuộc sở hữu của doanh nghiệp theo quy định hiện hành. Trường hợp ngay tại thời điểm khởi đầu thuê tài sản, doanh nghiệp đi thuê tài sản cố định tài chính cam kết không mua tài sản thuê trong hợp đồng thuê tài chính, thì doanh nghiệp đi thuê được trích khấu hao tài sản cố định thuê tài chính theo thời hạn thuê trong hợp đồng.
1.5. Việc trích hoặc thôi trích khấu hao tài sản cố định được thực hiện bắt đầu từ ngày (theo số ngày của tháng) mà tài sản cố định tăng, giảm, hoặc ngừng tham gia vào hoạt động kinh doanh.
1.6. Quyền sử dụng đất lâu dài là tài sản cố định vô hình đặc biệt, doanh nghiệp ghi nhận là tài sản cố định vô hình theo nguyên giá nhưng không được trích khấu hao.
2. Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định
2.1 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định hữu hình
2.1.1. Đối với tài sản cố định còn mới (chưa qua sử dụng), doanh nghiệp phải căn cứ vào khung thời gian sử dụng tài sản cố định quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính để xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định.
2.1.2. Đối với tài sản cố định đã qua sử dụng, thời gian sử dụng của tài sản cố định được xác định như sau:
Thời gian sử dụng của TSCĐ = (Giá trị hợp lý của TSCĐ/Giá bán của TSCĐ mới cùng lọai)*Thời gian sử dụng của TSCĐ cùng lọai (1)
(1): Phụ lục số 1 ban hành kèm theo quyết định 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003)
Trong đó:
Giá trị hợp lý của tài sản cố định là giá mua hoặc trao đổi thực tế (trong trường hợp mua bán, trao đổi), giá trị còn lại của tài sản cố định (trong trường hợp được cấp, được điều chuyển), giá trị theo đánh giá của Hội đồng giao nhận (trong trường hợp được cho, biếu tặng, nhận vốn góp),…
2.1.3. Trường hợp doanh nghiệp muốn xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định khác với khung thời gian sử dụng quy định tại Phụ lục 1 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, doanh nghiệp phải giải trình rõ các căn cứ để xác định thời gian sử dụng của tài sản cố định đó để Bộ Tài chính xem xét, quyết định theo ba tiêu chuẩn sau:
- Tuổi thọ kỹ thuật của tài sản cố định theo thiết kế;
- Hiện trạng tài sản cố định (thời gian tài sản cố định đã qua sử dụng, thế hệ tài sản cố định, tình trạng thực tế của tài sản...);
- Tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định.
2.1.4. Trường hợp có các yếu tố tác động (như việc nâng cấp hay tháo dỡ một hay một số bộ phận của tài sản cố định...) nhằm kéo dài hoặc rút ngắn thời gian sử dụng đã xác định trước đó của tài sản cố định, doanh nghiệp tiến hành xác định lại thời gian sử dụng của tài sản cố định theo ba tiêu chuẩn quy định tại khoản 3 Điều này tại thời điểm hoàn thành nghiệp vụ phát sinh, đồng thời phải lập biên bản nêu rõ các căn cứ làm thay đổi thời gian sử dụng.
2.2 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định vô hình
Doanh nghiệp tự xác định thời gian sử dụng tài sản cố định vô hình nhưng tối đa không quá 20 năm. Riêng thời gian sử dụng của quyền sử dụng đất có thời hạn là thời hạn được phép sử dụng đất theo quy định
2.3 Xác định thời gian sử dụng tài sản cố định trong một số trường hợp đặc biệt:
- Đối với dự án đầu tư theo hình thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao (B.O.T), thời gian sử dụng tài sản cố định được xác định từ thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng đến khi kết thúc dự án.
- Đối với hợp đồng hợp tác kinh doanh (B.C.C) có bên nước ngoài tham gia Hợp đồng, sau khi kết thúc thời hạn của hợp đồng bên nước ngoài thực hiện chuyển giao không bồi hoàn cho Nhà nước Việt Nam, thì thời gian sử dụng tài sản cố định của tài sản cố định chuyển giao được xác định từ thời điểm đưa tài sản cố định vào sử dụng đến khi kết thúc dự án.
3. Các phương pháp trích khấu hao tài sản cố định
3.1. Nội dung của phương pháp khấu hao đường thẳng; phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh; phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm được quy định tại Phụ lục 2 ban hành kèm theo Quyết định số 206/2003/QĐ-BTC ngày 12/12/2003 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
3.2. Căn cứ khả năng đáp ứng các điều kiện áp dụng quy định cho từng phương pháp trích khấu hao tài sản cố định, doanh nghiệp được lựa chọn các phương pháp trích khấu hao phù hợp với từng loại tài sản cố định của doanh nghiệp:
- Phương pháp khấu hao đường thẳng:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp khấu hao đường thẳng.
Các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả kinh tế cao được khấu hao nhanh nhưng tối đa không quá 2 lần mức khấu hao xác định theo phương pháp đường thẳng để nhanh chóng đổi mới công nghệ. Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao nhanh là máy móc, thiết bị; dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm; thiết bị và phương tiện vận tải; dụng cụ quản lý; súc vật, vườn cây lâu năm. Khi thực hiện trích khấu hao nhanh, doanh nghiệp phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
- Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp số dư giảm dần có điều chỉnh phải thoả mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Là tài sản cố định đầu tư mới (chưa qua sử dụng);
+ Là các loại máy móc, thiết bị; dụng cụ làm việc đo lường, thí nghiệm.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh được áp dụng đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực có công nghệ đòi hỏi phải thay đổi, phát triển nhanh.
- Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm:
Tài sản cố định tham gia vào hoạt động kinh doanh được trích khấu hao theo phương pháp này là các loại máy móc, thiết bị thỏa mãn đồng thời các điều kiện sau:
+ Trực tiếp liên quan đến việc sản xuất sản phẩm;
+ Xác định được tổng số lượng, khối lượng sản phẩm sản xuất theo công suất thiết kế của tài sản cố định;
+ Công suất sử dụng thực tế bình quân tháng trong năm tài chính không thấp hơn 50% công suất thiết kế.
3.3. Doanh nghiệp phải đăng ký phương pháp trích khấu hao tài sản cố định mà doanh nghiệp lựa chọn áp dụng với cơ quan thuế trực tiếp quản lý trước khi thực hiện trích khấu hao. Trường hợp việc lựa chọn của doanh nghiệp không trên cơ sở có đủ các điều kiện quy định thì cơ quan thuế có trách nhiệm thông báo cho doanh nghiệp biết để thay đổi phương pháp khấu hao cho phù hợp.
3.4. Phương pháp khấu hao áp dụng cho từng tài sản cố định mà doanh nghiệp đã lựa chọn và đăng ký phải thực hiện nhất quán trong suốt quá trình sử dụng tài sản cố định đó.
4. Kế tóan khấu hao tài sản cố định
- Định kỳ trích khấu hao TSCĐ hữu hình, tài sản cố định thuê tài chính tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
Nợ TK 623: Chi phí sử dụng máy thi công
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641: Chi phí bán hàng
Nợ TK 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Định kỳ trích khấu hao TSCĐ vô hình tính vào chi phí sản xuất kinh doanh
Nợ TK 627: Chi phí sản xuất chung
Nợ TK 641: Chi phí bán hàng
Nợ TK 642: Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Đơn vị nhận TSCĐ hữu hình đã sử dụng do được điều chuyển trong nội bộ tổng công ty, công ty:
Nợ TK 211: Tài sản CĐHH (Theo nguyên giá ban đầu)
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ (Số đã trích KH)
Có TK 411: Nguồn vốn kinh doanh (giá trị còn lại)
- Hao mòn TSCĐ dùng cho họat động sự nghiệp, chương trình dự án
Nợ TK 466: Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
- Hao mòn tài sản cố định dùng cho họat động văn hóa, phúc lợi
Nợ TK 4313: Quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ
Có TK 214: Hao mòn TSCĐ
V. THANH LÝ, NHƯỢNG BÁN TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
- Ghi giảm TSCĐ dùng cho họat động sản xuất, kinh doanh do thanh lý, nhượng bán, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Phần giá trị còn lại)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Trường hợp TSCĐ nhượng bán, thanh lý được dùng vào họat động sự nghiệp, dự án ghi:
Nợ TK 466: Nguồn kinh phí đã hình thành TSCĐ
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Trường hợp TSCĐ nhượng bán, thanh lý được dùng vào họat động phúc lợi ghi:
Nợ TK 4313: Quỹ phúc lợi đã hình thành TSCĐ (giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Phần giá trị hao mòn)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá)
- Các chi phí phát sinh cho hoạt động thanh lý, nhượng bán TSCĐ (nếu có), ghi:
Nợ TK 811 - Chi phí khác
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)
Có các TK 111, 112, 141, 331,... (Tổng giá thanh toán).
- Phản ánh số thu nhập khác về thanh lý, nhượng bán TSCĐ:
+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ các TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Số thu nhập chưa có thuế GTGT)
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp .
+ Đối với doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, số thu về nhượng bán, thanh lý TSCĐ, ghi:
Nợ TK 111, 112, 131 (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Tổng giá thanh toán).
- Số thuế GTGT phải nộp tính theo phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 711 - Thu nhập khác
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp.
(nguồn webketoan.vn)
TÌM HIỂU VỀ KẾ TOÁN TSCĐ P2
III. CÁC NGHIỆP VỤ KẾ TÓAN LIÊN QUAN ĐẾN TĂNG TÀI SẢN CỐ ĐỊNH
1. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định hữu hình
1.1- Trường hợp mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp:
- Khi mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp và đưa về sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá - ghi theo giá mua trả tiền ngay)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Phần lãi trả chậm là số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả tiền ngay
trừ (-) thuế GTGT (nếu có)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
- Định kỳ, thanh toán tiền cho người bán, kế toán ghi:
Nợ TK 331 - Phải trả cho người bán
Có TK 111, 112 (Số phải trả định kỳ bao gồm cả giá gốc và lãi trả chậm, trả góp phải trả định kỳ).
Đồng thời tính vào chi phí theo số lãi trả chậm, trả góp phải trả của từng kỳ, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn.
1.2- Trường hợp doanh nghiệp được tài trợ, biếu tặng TSCĐ hữu hình đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 711 - Thu nhập khác.
Các chi phí khác liên quan trực tiếp đến TSCĐ hữu hình được tài trợ, biếu, tặng tính vào nguyên giá, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 111, 112, 331,...
1.3- Trường hợp TSCĐ hữu hình tự chế:
- Khi sử dụng sản phẩm do doanh nghiệp tự chế tạo để chuyển thành TSCĐ hữu hình sử dụng cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 155 - Thành phẩm (Nếu xuất kho ra sử dụng)
Có TK 154 - Chi phí SXKD dở dang (Nếu sản xuất xong đưa vào sử dụng ngay, không qua kho).
Đồng thời ghi tăng TSCĐ hữu hình:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 512- Doanh thu nội bộ(Doanh thu là giá thành thực tế sản phẩm).
- Chi phí lắp đặt, chạy thử,... liên quan đến TSCĐ hữu hình, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 111, 112, 331,...
1.4 - Trường hợp TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi:
1.4.1. TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với TSCĐ hữu hình tương tự:
- Khi nhận TSCĐ hữu hình tương tự do trao đổi và đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá TSCĐ hữu hình nhận về ghi theo giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá của TSCĐ hữu hình đưa đi trao đổi).
1.4.2. TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với TSCĐ hữu hình không tương tự:
- Khi giao TSCĐ hữu hình cho bên trao đổi, kế toán ghi giảm TSCĐ:
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá).
Đồng thời ghi tăng thu nhập do trao đổi TSCĐ:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (TK 33311) (nếu có).
- Khi nhận được TSCĐ hữu hình do trao đổi, ghi:
Nợ TK 211-TSCĐ hữu hình (Giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán).
Trường hợp phải thu thêm tiền do giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi lớn hơn giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi thì khi nhận được tiền của bên có TSCĐ trao đổi, ghi:
Nợ TK 111, 112 (Số tiền đã thu thêm)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng.
Trường hợp phải trả thêm tiền do giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi nhỏ hơn giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi thì khi trả tiền cho bên có TSCĐ trao đổi, ghi:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng
Có TK 111, 112,...
1.5- Trường hợp mua TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất, đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá- chi tiết nhà cửa, vật kiến trúc)
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá- chi tiết quyền sử dụng đất)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 331,...
1.6- Đối với TSCĐ hữu hình hiện đang ghi trên sổ của doanh nghiệp, nếu không đủ tiêu chuẩn ghi nhận quy định trong chuẩn mực TSCĐ hữu hình, phải chuyển sang là công cụ, dụng cụ, kế toán phải ghi giảm TSCĐ hữu hình:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại) (Nếu giá trị còn lại nhỏ)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Giá trị còn lại) (Nếu giá trị còn lại lớn phải phân bổ dần)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình.
1.7- Khi công tác XDCB hoàn thành bàn giao đưa tài sản vào sử dụng cho SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 241 - XDCB dở dang.
- Nếu tài sản hình thành qua đầu tư không thoả mãn các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 152, 153 (Nếu là vật liệu, công cụ nhập kho)
Có TK 241 - XDCB dở dang.
1.8- Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu liên quan đến TSCĐ hữu hình như sửa chữa, cải tạo, nâng cấp:
- Khi phát sinh chi phí sửa chữa, cải tạo, nâng cấp TSCĐ hữu hình sau khi ghi nhận ban đầu, ghi:
Nợ TK 241 - XDCB dở dang
Có TK 112, 152, 331, 334,...
- Khi công việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp TSCĐ hoàn thành đưa vào sử dụng, ghi:
+ Nếu thoả mãn các điều kiện được ghi tăng nguyên giá TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
+ Nếu không thoả mãn các điều kiện được ghi tăng nguyên giá TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 627, 641, 642 (Nếu giá trị nhỏ)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Nếu giá trị lớn phải phân bổ dần)
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
2. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định vô hình
2.1 Hạch toán các nghiệp vụ mua TSCĐ vô hình:
- Trường hợp mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Giá mua chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 112 - Tiền gửi Ngân hàng; hoặc
Có TK 141 - Tạm ứng
Có TK 331 - Phải trả cho người bán.
- Trường hợp mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 112, 331...
2.2 Trường hợp mua TSCĐ vô hình theo phương thức trả chậm, trả góp:
2.2.1. Khi mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá -Theo giá mua trả ngay chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Phần lãi trả chậm, trả góp tính bằng số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả
ngay và thuế GTGT đầu vào (nếu có))
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
2.2.2. Khi mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá - Theo giá mua trả ngay đã có thuế GTGT)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn(Phần lãi trả chậm, trả góp tính bằng số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả
ngay)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
2.2.3. Hàng kỳ tính số lãi phải trả về mua TSCĐ theo phương thức trả chậm, trả góp, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn.
2.2.4 - Khi thanh toán tiền cho người bán, ghi:
Nợ TK 331 - Phải trả cho người bán
Có các TK 111, 112.
2.3. TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi
2.3.1. Trao đổi hai TSCĐ vô hình tương tự:
Khi nhận TSCĐ vô hình tương tự do trao đổi với một TSCĐ vô hình tương tự và đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá TSCĐ vô hình nhận về ghi theo giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (2143) (Giá trị đã khấu hao của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá của TSCĐ vô hình đưa đi trao đổi).
2.3.2. Trao đổi hai TSCĐ vô hình không tương tự:
- Ghi giảm TSCĐ vô hình đưa đi trao đổi, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Đồng thời phản ánh số thu nhập do trao đổi TSCĐ, ghi:
Nợ TK 131- Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 3331 - Thuế GTGT (33311) (nếu có).
- Ghi tăng TSCĐ vô hình nhận trao đổi về, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Giá trị hợp lý của TSCĐ nhận về)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332) (Nếu có)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán).
2.4. Giá trị TSCĐ vô hình được hình thành từ nội bộ doanh nghiệp trong giai đoạn triển khai:
2.44.1. Khi phát sinh chi phí trong giai đoạn triển khai thì tập hợp vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hoặc tập hợp vào chi phí trả trước dài hạn, ghi:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (trường hợp giá trị lớn) hoặc
Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có các TK 111, 112, 152, 153, 331...
2.4.2. Khi xét thấy kết quả triển khai thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình thì:
a/ Tập hợp chi phí thực tế phát sinh ở giai đoạn triển khai để hình thành nguyên giá TSCĐ vô hình, ghi:
Nợ TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332 - nếu có)
Có các TK 111, 112, 152, 153, 331...
b/ Khi kết thúc giai đoạn triển khai, kế toán phải xác định tổng chi phí thực tế phát sinh hình thành nguyên giá TSCĐ vô hình, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
2.5. Khi mua TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất cùng với mua nhà cửa, vật kiến trúc trên đất thì phải xác định riêng biệt giá trị TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất, TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá nhà cửa, vật kiến trúc)
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá quyền sử dụng đất)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332 - nếu có)
Có các TK 111, 112, 331...
2.6. Khi mua TSCĐ vô hình được thanh toán bằng chứng từ liên quan đến quyền sở hữu vốn của các công ty cổ phần, nguyên giá TSCĐ vô hình là giá trị hợp lý của các chứng từ được phát hành liên quan đến quyền sở hữu vốn, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh (Chi tiết vốn góp và thặng dư vốn cổ phần. Thặng dư vốn cổ phần là phần chênh lệch giữa giá trị
hợp lý và mệnh giá cổ phiếu).
2.7. Khi doanh nghiệp được tài trợ, biếu, tặng TSCĐ vô hình đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD:
2.7.1. Khi nhận TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 213- TSCĐ vô hình
Có TK 711 - Thu nhập khác.
Các chi phí phát sinh liên quan đến TSCĐ vô hình nhận tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 111, 112,...
2.7.2. Khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp NSNN (3334).
2.7.3. Sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng ghi tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, ghi:
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh (Chi tiết nguồn vốn KD khác).
2.8. Khi doanh nghiệp nhận vốn góp liên doanh bằng quyền sử dụng đất, căn cứ vào hồ sơ giao quyền sử dụng đất, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh.
2.9. Hạch toán giảm TSCĐ vô hình trong trường hợp chi phí nghiên cứu, lợi thế thương mại, chi phí thành lập, đã được hạch toán vào TSCĐ vô hình trước khi thực hiện chuẩn mực kế toán:
- Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này nhỏ, kết chuyển một lần vào chi phí SXKD trong kỳ, ghi:
Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này lớn được kết chuyển vào chi phí trả trước dài hạn để phân bổ dần, ghi:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
3. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định thuê tài chính
- Khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến tài sản thuê tài chính trước khi nhận tài sản thuê như đàm phán, ký kết hợp đồng..., ghi:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước
Có các TK 111, 112...
- Khi chi tiền ứng trước khoản tiền thuê tài chính, ký quỹ đảm bảo việc thuê tài sản, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn (Số tiền thuê trả trước - nếu có)
Nợ TK 244- Ký quỹ, ký cược dài hạn
Có các TK 111, 112...
- Trường hợp nợ gốc phải trả về thuê tài chính xác định theo giá mua chưa có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê.
a. Khi nhận TSCĐ thuê tài chính, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản và các chứng từ có liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT đầu vào, ghi:
Nợ TK 212- TSCĐ thuê tài chính (Giá chưa có thuế GTGT)
Có TK 342 - Nợ dài hạn (Giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ (-) Số nợ gốc phải trả kỳ này)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Số nợ gốc phải trả kỳ này).
b. Chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài chính được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính
Có TK 142 - Chi phí trả trước, hoặc
Có các TK 111, 112 (Số chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động thuê phát sinh khi nhận tài sản thuê tài chính).
c. Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
d. Định kỳ, nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính:
d.1- Trường hợp TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế:
- Khi xuất tiền trả nợ gốc, tiền lãi thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc trả kỳ này)
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có các TK 111, 112.
- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài sản nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê)
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
d.2- Trường hợp TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp:
- Khi xuất tiền trả nợ gốc, tiền lãi thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc trả kỳ này)
Nợ TK 623, TK 627, TK 641, TK 642 (Số thuế GTGT trả kỳ này)
Có các TK 111, 112.
- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT phải trả vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê)
Nợ TK 623, TK 627, TK 641, TK 642 (Số thuế GTGT)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
- Trường hợp nợ gốc phải trả về thuê tài chính xác định theo giá mua có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê:
a.1 Khi nhận TSCĐ thuê tài chính bên đi thuê nhận nợ cả số thuế GTGT do bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê mà bên thuê phải hoàn lại cho bên cho thuê, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính và các chứng từ liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT phải hoàn lại cho bên cho thuê, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính (Giá chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 138 - Phải thu khác (Số thuế GTGT đầu vào của TSCĐ thuê tài chính)
Có TK 315 - Nợ dài hạn đến hạn trả (Số nợ phải trả kỳ này có cả
thuế GTGT)
Có TK 342 - Nợ dài hạn (Giá trị hiện tại của khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ (-) Số nợ phải trả kỳ này cộng (+) Số thuế GTGT bên thuê còn phải trả dần trong suốt thời hạn thuê).
a.2 Chi phí trực tiếp ban đầu được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính
Có TK 142 - Chi phí trả trước
Có các TK 111, 112 (Chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến hoạt động thuê tài chính khi nhận tài sản thuê tài chính).
a.3 Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
a.4 Định kỳ, nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính:
a.4.1- Khi chi tiền trả nợ gốc và tiền lãi thuê tài sản cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315 - Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc phải trả kỳ này có cả thuế GTGT)
Có các TK 111, 112 ...
a.4.2 - Căn cứ vào hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT phải thanh toán cho bên cho thuê trong kỳ, ghi:
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332), hoặc
Nợ các TK 627, 641, 642 (Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp hạch toán vào chi phí SXKD trong kỳ)
Có TK 138 - Phải thu khác.
a.4.3- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số lãi thuê tài chính phải trả kỳ này vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Tiền lãi thuê phải trả kỳ này).
- Căn cứ hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ hoặc tính vào chi phí trong kỳ giống như trường hợp chi tiền trả nợ khi nhận được hoá đơn (như bút toán d.4.2).
- Khi trả phí cam kết sử dụng vốn phải trả cho bên cho thuê tài sản, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có các TK 111, 112...
- Định kỳ, kế toán tính, trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc vốn hoá vào giá trị tài sản dở dang, ghi:
Nợ các TK 623, 627, 641, 642, 241 ...
Có TK 214 - Hao mòn TSCĐ thuê tài chính (2142).
Đồng thời ghi đơn bên Nợ TK 009- Nguồn vốn khấu hao TSCĐ.
- Khi trả lại TSCĐ thuê tài chính theo quy định của hợp đồng thuê cho bên cho thuê, kế toán ghi giảm giá trị TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (2142)
Có TK 212 - TSCĐ thuê tài chính.
- Trường hợp trong hợp đồng thuê tài sản quy định bên đi thuê chỉ thuê hết một phần giá trị tài sản, sau đó mua lại thì khi nhận chuyển giao quyền sở hữu tài sản, kế toán ghi giảm TSCĐ thuê tài chính và ghi tăng TSCĐ hữu hình thuộc sở hữu của doanh nghiệp:
- Khi chuyển từ tài sản thuê tài chính sang tài sản thuộc sở hữu, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 212 - TSCĐ thuê tài chính.
- Số tiền trả khi mua lại TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình
Có các TK 111, 112.
Đồng thời chuyển giá trị hao mòn, ghi:
Nợ TK 2142 - Hao mòn TSCĐ thuê tài chính
Có TK 2141 - Hao mòn TSCĐ hữu hình.
(nguồn webketoan.vn)
1. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định hữu hình
1.1- Trường hợp mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp:
- Khi mua TSCĐ hữu hình theo phương thức trả chậm, trả góp và đưa về sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá - ghi theo giá mua trả tiền ngay)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Phần lãi trả chậm là số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả tiền ngay
trừ (-) thuế GTGT (nếu có)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
- Định kỳ, thanh toán tiền cho người bán, kế toán ghi:
Nợ TK 331 - Phải trả cho người bán
Có TK 111, 112 (Số phải trả định kỳ bao gồm cả giá gốc và lãi trả chậm, trả góp phải trả định kỳ).
Đồng thời tính vào chi phí theo số lãi trả chậm, trả góp phải trả của từng kỳ, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn.
1.2- Trường hợp doanh nghiệp được tài trợ, biếu tặng TSCĐ hữu hình đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 711 - Thu nhập khác.
Các chi phí khác liên quan trực tiếp đến TSCĐ hữu hình được tài trợ, biếu, tặng tính vào nguyên giá, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 111, 112, 331,...
1.3- Trường hợp TSCĐ hữu hình tự chế:
- Khi sử dụng sản phẩm do doanh nghiệp tự chế tạo để chuyển thành TSCĐ hữu hình sử dụng cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 632 - Giá vốn hàng bán
Có TK 155 - Thành phẩm (Nếu xuất kho ra sử dụng)
Có TK 154 - Chi phí SXKD dở dang (Nếu sản xuất xong đưa vào sử dụng ngay, không qua kho).
Đồng thời ghi tăng TSCĐ hữu hình:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 512- Doanh thu nội bộ(Doanh thu là giá thành thực tế sản phẩm).
- Chi phí lắp đặt, chạy thử,... liên quan đến TSCĐ hữu hình, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 111, 112, 331,...
1.4 - Trường hợp TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi:
1.4.1. TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với TSCĐ hữu hình tương tự:
- Khi nhận TSCĐ hữu hình tương tự do trao đổi và đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá TSCĐ hữu hình nhận về ghi theo giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá của TSCĐ hữu hình đưa đi trao đổi).
1.4.2. TSCĐ hữu hình mua dưới hình thức trao đổi với TSCĐ hữu hình không tương tự:
- Khi giao TSCĐ hữu hình cho bên trao đổi, kế toán ghi giảm TSCĐ:
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại của TSCĐ hữu hình đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá).
Đồng thời ghi tăng thu nhập do trao đổi TSCĐ:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 3331 - Thuế GTGT phải nộp (TK 33311) (nếu có).
- Khi nhận được TSCĐ hữu hình do trao đổi, ghi:
Nợ TK 211-TSCĐ hữu hình (Giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (Nếu có)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán).
Trường hợp phải thu thêm tiền do giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi lớn hơn giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi thì khi nhận được tiền của bên có TSCĐ trao đổi, ghi:
Nợ TK 111, 112 (Số tiền đã thu thêm)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng.
Trường hợp phải trả thêm tiền do giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi nhỏ hơn giá trị hợp lý của TSCĐ nhận được do trao đổi thì khi trả tiền cho bên có TSCĐ trao đổi, ghi:
Nợ TK 131 - Phải thu của khách hàng
Có TK 111, 112,...
1.5- Trường hợp mua TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc gắn liền với quyền sử dụng đất, đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá- chi tiết nhà cửa, vật kiến trúc)
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá- chi tiết quyền sử dụng đất)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 331,...
1.6- Đối với TSCĐ hữu hình hiện đang ghi trên sổ của doanh nghiệp, nếu không đủ tiêu chuẩn ghi nhận quy định trong chuẩn mực TSCĐ hữu hình, phải chuyển sang là công cụ, dụng cụ, kế toán phải ghi giảm TSCĐ hữu hình:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại) (Nếu giá trị còn lại nhỏ)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Giá trị còn lại) (Nếu giá trị còn lại lớn phải phân bổ dần)
Có TK 211 - TSCĐ hữu hình.
1.7- Khi công tác XDCB hoàn thành bàn giao đưa tài sản vào sử dụng cho SXKD, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 241 - XDCB dở dang.
- Nếu tài sản hình thành qua đầu tư không thoả mãn các tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 152, 153 (Nếu là vật liệu, công cụ nhập kho)
Có TK 241 - XDCB dở dang.
1.8- Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu liên quan đến TSCĐ hữu hình như sửa chữa, cải tạo, nâng cấp:
- Khi phát sinh chi phí sửa chữa, cải tạo, nâng cấp TSCĐ hữu hình sau khi ghi nhận ban đầu, ghi:
Nợ TK 241 - XDCB dở dang
Có TK 112, 152, 331, 334,...
- Khi công việc sửa chữa, cải tạo, nâng cấp TSCĐ hoàn thành đưa vào sử dụng, ghi:
+ Nếu thoả mãn các điều kiện được ghi tăng nguyên giá TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
+ Nếu không thoả mãn các điều kiện được ghi tăng nguyên giá TSCĐ hữu hình theo quy định của chuẩn mực kế toán, ghi:
Nợ TK 627, 641, 642 (Nếu giá trị nhỏ)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Nếu giá trị lớn phải phân bổ dần)
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
2. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định vô hình
2.1 Hạch toán các nghiệp vụ mua TSCĐ vô hình:
- Trường hợp mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Giá mua chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 112 - Tiền gửi Ngân hàng; hoặc
Có TK 141 - Tạm ứng
Có TK 331 - Phải trả cho người bán.
- Trường hợp mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hóa, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 112, 331...
2.2 Trường hợp mua TSCĐ vô hình theo phương thức trả chậm, trả góp:
2.2.1. Khi mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá -Theo giá mua trả ngay chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Phần lãi trả chậm, trả góp tính bằng số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả
ngay và thuế GTGT đầu vào (nếu có))
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
2.2.2. Khi mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động SXKD hàng hoá, dịch vụ không thuộc diện chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá - Theo giá mua trả ngay đã có thuế GTGT)
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn(Phần lãi trả chậm, trả góp tính bằng số chênh lệch giữa tổng số tiền phải thanh toán trừ (-) giá mua trả
ngay)
Có TK 331 - Phải trả cho người bán (Tổng giá thanh toán).
2.2.3. Hàng kỳ tính số lãi phải trả về mua TSCĐ theo phương thức trả chậm, trả góp, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn.
2.2.4 - Khi thanh toán tiền cho người bán, ghi:
Nợ TK 331 - Phải trả cho người bán
Có các TK 111, 112.
2.3. TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi
2.3.1. Trao đổi hai TSCĐ vô hình tương tự:
Khi nhận TSCĐ vô hình tương tự do trao đổi với một TSCĐ vô hình tương tự và đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá TSCĐ vô hình nhận về ghi theo giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (2143) (Giá trị đã khấu hao của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá của TSCĐ vô hình đưa đi trao đổi).
2.3.2. Trao đổi hai TSCĐ vô hình không tương tự:
- Ghi giảm TSCĐ vô hình đưa đi trao đổi, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Giá trị đã khấu hao)
Nợ TK 811 - Chi phí khác (Giá trị còn lại của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Đồng thời phản ánh số thu nhập do trao đổi TSCĐ, ghi:
Nợ TK 131- Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán)
Có TK 711 - Thu nhập khác (Giá trị hợp lý của TSCĐ đưa đi trao đổi)
Có TK 3331 - Thuế GTGT (33311) (nếu có).
- Ghi tăng TSCĐ vô hình nhận trao đổi về, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Giá trị hợp lý của TSCĐ nhận về)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332) (Nếu có)
Có TK 131 - Phải thu của khách hàng (Tổng giá thanh toán).
2.4. Giá trị TSCĐ vô hình được hình thành từ nội bộ doanh nghiệp trong giai đoạn triển khai:
2.44.1. Khi phát sinh chi phí trong giai đoạn triển khai thì tập hợp vào chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ hoặc tập hợp vào chi phí trả trước dài hạn, ghi:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (trường hợp giá trị lớn) hoặc
Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có các TK 111, 112, 152, 153, 331...
2.4.2. Khi xét thấy kết quả triển khai thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình thì:
a/ Tập hợp chi phí thực tế phát sinh ở giai đoạn triển khai để hình thành nguyên giá TSCĐ vô hình, ghi:
Nợ TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332 - nếu có)
Có các TK 111, 112, 152, 153, 331...
b/ Khi kết thúc giai đoạn triển khai, kế toán phải xác định tổng chi phí thực tế phát sinh hình thành nguyên giá TSCĐ vô hình, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang.
2.5. Khi mua TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất cùng với mua nhà cửa, vật kiến trúc trên đất thì phải xác định riêng biệt giá trị TSCĐ vô hình là quyền sử dụng đất, TSCĐ hữu hình là nhà cửa, vật kiến trúc, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình (Nguyên giá nhà cửa, vật kiến trúc)
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá quyền sử dụng đất)
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332 - nếu có)
Có các TK 111, 112, 331...
2.6. Khi mua TSCĐ vô hình được thanh toán bằng chứng từ liên quan đến quyền sở hữu vốn của các công ty cổ phần, nguyên giá TSCĐ vô hình là giá trị hợp lý của các chứng từ được phát hành liên quan đến quyền sở hữu vốn, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh (Chi tiết vốn góp và thặng dư vốn cổ phần. Thặng dư vốn cổ phần là phần chênh lệch giữa giá trị
hợp lý và mệnh giá cổ phiếu).
2.7. Khi doanh nghiệp được tài trợ, biếu, tặng TSCĐ vô hình đưa vào sử dụng ngay cho hoạt động SXKD:
2.7.1. Khi nhận TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 213- TSCĐ vô hình
Có TK 711 - Thu nhập khác.
Các chi phí phát sinh liên quan đến TSCĐ vô hình nhận tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 111, 112,...
2.7.2. Khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng, ghi:
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 333 - Thuế và các khoản phải nộp NSNN (3334).
2.7.3. Sau khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu, tặng ghi tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp, ghi:
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh (Chi tiết nguồn vốn KD khác).
2.8. Khi doanh nghiệp nhận vốn góp liên doanh bằng quyền sử dụng đất, căn cứ vào hồ sơ giao quyền sử dụng đất, ghi:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh.
2.9. Hạch toán giảm TSCĐ vô hình trong trường hợp chi phí nghiên cứu, lợi thế thương mại, chi phí thành lập, đã được hạch toán vào TSCĐ vô hình trước khi thực hiện chuẩn mực kế toán:
- Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này nhỏ, kết chuyển một lần vào chi phí SXKD trong kỳ, ghi:
Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
- Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này lớn được kết chuyển vào chi phí trả trước dài hạn để phân bổ dần, ghi:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá).
3. Các nghiệp vụ kế toán liên quan đến tăng tài sản cố định thuê tài chính
- Khi phát sinh các chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến tài sản thuê tài chính trước khi nhận tài sản thuê như đàm phán, ký kết hợp đồng..., ghi:
Nợ TK 142 - Chi phí trả trước
Có các TK 111, 112...
- Khi chi tiền ứng trước khoản tiền thuê tài chính, ký quỹ đảm bảo việc thuê tài sản, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn (Số tiền thuê trả trước - nếu có)
Nợ TK 244- Ký quỹ, ký cược dài hạn
Có các TK 111, 112...
- Trường hợp nợ gốc phải trả về thuê tài chính xác định theo giá mua chưa có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê.
a. Khi nhận TSCĐ thuê tài chính, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản và các chứng từ có liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT đầu vào, ghi:
Nợ TK 212- TSCĐ thuê tài chính (Giá chưa có thuế GTGT)
Có TK 342 - Nợ dài hạn (Giá trị hiện tại của khoản thanh toán tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ (-) Số nợ gốc phải trả kỳ này)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Số nợ gốc phải trả kỳ này).
b. Chi phí trực tiếp ban đầu liên quan đến hoạt động thuê tài chính được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính
Có TK 142 - Chi phí trả trước, hoặc
Có các TK 111, 112 (Số chi phí trực tiếp liên quan đến hoạt động thuê phát sinh khi nhận tài sản thuê tài chính).
c. Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào hợp đồng thuê tài sản xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
d. Định kỳ, nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính:
d.1- Trường hợp TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT tính theo phương pháp khấu trừ thuế:
- Khi xuất tiền trả nợ gốc, tiền lãi thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc trả kỳ này)
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có các TK 111, 112.
- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài sản nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê)
Nợ TK 133- Thuế GTGT được khấu trừ (1332)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
d.2- Trường hợp TSCĐ thuê tài chính dùng vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT hoặc chịu thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp:
- Khi xuất tiền trả nợ gốc, tiền lãi thuê và thuế GTGT cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc trả kỳ này)
Nợ TK 623, TK 627, TK 641, TK 642 (Số thuế GTGT trả kỳ này)
Có các TK 111, 112.
- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số nợ phải trả lãi thuê tài chính và số thuế GTGT phải trả vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê)
Nợ TK 623, TK 627, TK 641, TK 642 (Số thuế GTGT)
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
- Trường hợp nợ gốc phải trả về thuê tài chính xác định theo giá mua có thuế GTGT mà bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê:
a.1 Khi nhận TSCĐ thuê tài chính bên đi thuê nhận nợ cả số thuế GTGT do bên cho thuê đã trả khi mua TSCĐ để cho thuê mà bên thuê phải hoàn lại cho bên cho thuê, kế toán căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính và các chứng từ liên quan phản ánh giá trị TSCĐ thuê tài chính theo giá chưa có thuế GTGT phải hoàn lại cho bên cho thuê, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính (Giá chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 138 - Phải thu khác (Số thuế GTGT đầu vào của TSCĐ thuê tài chính)
Có TK 315 - Nợ dài hạn đến hạn trả (Số nợ phải trả kỳ này có cả
thuế GTGT)
Có TK 342 - Nợ dài hạn (Giá trị hiện tại của khoản thanh toán
tiền thuê tối thiểu hoặc giá trị hợp lý của tài sản thuê trừ (-) Số nợ phải trả kỳ này cộng (+) Số thuế GTGT bên thuê còn phải trả dần trong suốt thời hạn thuê).
a.2 Chi phí trực tiếp ban đầu được ghi nhận vào nguyên giá TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 212 - TSCĐ thuê tài chính
Có TK 142 - Chi phí trả trước
Có các TK 111, 112 (Chi phí trực tiếp phát sinh liên quan đến hoạt động thuê tài chính khi nhận tài sản thuê tài chính).
a.3 Cuối niên độ kế toán, căn cứ vào hợp đồng thuê tài chính xác định số nợ gốc thuê tài chính đến hạn trả trong niên độ kế toán tiếp theo, ghi:
Nợ TK 342- Nợ dài hạn
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả.
a.4 Định kỳ, nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính:
a.4.1- Khi chi tiền trả nợ gốc và tiền lãi thuê tài sản cho đơn vị cho thuê, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính (Tiền lãi thuê trả kỳ này)
Nợ TK 315 - Nợ dài hạn đến hạn trả (Nợ gốc phải trả kỳ này có cả thuế GTGT)
Có các TK 111, 112 ...
a.4.2 - Căn cứ vào hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT phải thanh toán cho bên cho thuê trong kỳ, ghi:
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (1332), hoặc
Nợ các TK 627, 641, 642 (Thuế GTGT tính theo phương pháp trực tiếp hạch toán vào chi phí SXKD trong kỳ)
Có TK 138 - Phải thu khác.
a.4.3- Khi nhận được hoá đơn thanh toán tiền thuê tài chính nhưng doanh nghiệp chưa trả tiền ngay, căn cứ vào hoá đơn phản ánh số lãi thuê tài chính phải trả kỳ này vào TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả, ghi:
Nợ TK 635- Chi phí tài chính
Có TK 315- Nợ dài hạn đến hạn trả (Tiền lãi thuê phải trả kỳ này).
- Căn cứ hoá đơn thanh toán tiền thuê phản ánh số thuế GTGT được khấu trừ hoặc tính vào chi phí trong kỳ giống như trường hợp chi tiền trả nợ khi nhận được hoá đơn (như bút toán d.4.2).
- Khi trả phí cam kết sử dụng vốn phải trả cho bên cho thuê tài sản, ghi:
Nợ TK 635 - Chi phí tài chính
Có các TK 111, 112...
- Định kỳ, kế toán tính, trích khấu hao TSCĐ thuê tài chính vào chi phí sản xuất, kinh doanh hoặc vốn hoá vào giá trị tài sản dở dang, ghi:
Nợ các TK 623, 627, 641, 642, 241 ...
Có TK 214 - Hao mòn TSCĐ thuê tài chính (2142).
Đồng thời ghi đơn bên Nợ TK 009- Nguồn vốn khấu hao TSCĐ.
- Khi trả lại TSCĐ thuê tài chính theo quy định của hợp đồng thuê cho bên cho thuê, kế toán ghi giảm giá trị TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (2142)
Có TK 212 - TSCĐ thuê tài chính.
- Trường hợp trong hợp đồng thuê tài sản quy định bên đi thuê chỉ thuê hết một phần giá trị tài sản, sau đó mua lại thì khi nhận chuyển giao quyền sở hữu tài sản, kế toán ghi giảm TSCĐ thuê tài chính và ghi tăng TSCĐ hữu hình thuộc sở hữu của doanh nghiệp:
- Khi chuyển từ tài sản thuê tài chính sang tài sản thuộc sở hữu, ghi:
Nợ TK 211 - TSCĐ hữu hình
Có TK 212 - TSCĐ thuê tài chính.
- Số tiền trả khi mua lại TSCĐ thuê tài chính, ghi:
Nợ TK 211- TSCĐ hữu hình
Có các TK 111, 112.
Đồng thời chuyển giá trị hao mòn, ghi:
Nợ TK 2142 - Hao mòn TSCĐ thuê tài chính
Có TK 2141 - Hao mòn TSCĐ hữu hình.
(nguồn webketoan.vn)
Thứ Năm, 19 tháng 2, 2009
Các phương pháp kế toán cơ bản
Hầu hết các doanh nghiệp đều sử dụng một trong hai phương pháp kế toán làm nền tảng cho hệ thống kế toán: Kế toán dồn tích (Accrual basis) và Kế toán dựa trên dòng tiền (Cash basis). Chế độ kế toán Việt Nam quy định các doanh nghiệp phải hạch toán kế toán dựa trên phương pháp kế toán dồn tích nhằm đảm bảo tính Phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
Kế toán dồn tích
Accrual basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam là Kế toán dồn tích. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách đơn giản, Accrual basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Dự thu - Dự chi. Theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán chung (VAS 01), “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền.”
Một ví dụ điển hình của phương pháp Kế toán dồn tích là hoạt động bán chịu. Doanh thu được ghi nhận vào sổ kế toán khi phát hành hoá đơn, giao hàng thay vì vào thời điểm thu được tiền. Tương tự, một khoản chi phí phát sinh và được ghi nhận khi hàng đã được đặt mua hoặc đã chấm công cho công nhân thay vì thời điểm thanh toán tiền. Do đó, điểm yếu chính của phương pháp Kế toán dồn tích đó là công ty phải trả thuế thu nhập trước khi thực nhận được tiền từ doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ.
Kế toán dựa trên dòng tiền
Cash basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, nhiều khi được hiểu và dịch sai thành “Cơ sở tiền mặt”. Thực chất, cash basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Thực thu - Thực chi tiền. Phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền là phương pháp đơn giản nhất. Theo phương pháp này thu nhập và chi phí được ghi nhận khi thực nhận tiền và thực chi tiền.
Chọn Phương pháp kế toán nào cho phù hợp
Phương pháp Kế toán dồn tích được lựa cho hầu hết các doanh nghiệp có khối lượng doanh thu cao, không phân biệt bán chịu hay bán thu tiền ngay, và có kết cấu phức tạp. Thêm vào đó, những doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có liên quan đến Hàng hoá tồn khó phải áp dụng phương pháp này; và việc áp dụng Kế toán dồn tích là thực sự cần thiết đối với những doanh nghiệp phát sinh các hoạt động bán chịu, khi đó nó sẽ đảm bảo tính Phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong một kỳ kế toán nhất định.
Phương pháp Kế toán dựa trên dòng tiền thương được áp dụng đối với những doanh nghiệp nhỏ mà hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền ra vào, đặc biệt là các doanh nghiệp dịch vụ không liên quan đến hàng hoá tồn kho. Trên thế giới, đứng trên quan điểm của thuế, một số trường hợp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Theo phương pháp này, thu nhập có thể được ghi nhận vào năm tài chính sau, trong khi chi phí hay giá vốn có thể đã được ghi nhận trước, tại thời điểm thanh toán. Do đó, nó đảm bảo nguyên tắc Thận trọng trong kế toán cũng như Thận trọng trong kinh doanh. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp này.
Kết hợp giữa Kế toán dựa trên dòng tiền và Kế toán dồn tích
Cũng như Việt Nam, tại một số nước trên thế giới, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền. Tuy nhiên, do ưu điểm là rất đơn giản, một số doanh nghiệp vẫn áp dụng phương pháp kế toán này cho việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong năm tài chính, và vào cuối năm tài chính thực hiện CÁC BÚT TOÁN ĐIỀU CHỈNH để chuyển Báo cáo tài chính thành lập-theo-kế-toán-dồn-tích.
Họ đã làm như thế nào? Trong kỳ, kế toán ghi nhận doanh thu tại thời điểm thu được tiền và chi phí tại thời điểm chi tiền. Các hoá đơn phát hành và hoá đơn chi phí phát sinh được theo dõi chi tiết ngoại bảng.
Tại thời điểm cuối năm tài chính, kế toán thống kê lại các hoá đơn bán hàng đã phát hành nhưng chưa được thanh toán, và thực hiện lập bút toán điều chỉnh tăng doanh thu và các khoản phải thu
Nợ Phải thu khách hàng
Có Doanh thu
Kế toán thống kê các hoá đơn chi phí đã phát sinh nhưng chưa thanh toán tiền, và lập bút toán điều chỉnh tăng chi phí và các khoản phải trả.
Nợ Chi phí
Có Phải trả nhà cung cấp
Như vậy, công ty vẫn đảm bảo tuân thủ theo Phương pháp Kế toán dồn tích. Thông thường các hoá đơn chưa thu tiền hoặc chưa thanh toán còn lại rất ít. Do đó, đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc hạch toán kết hợp như vậy rất thuận lợi cho công tác quản lý, đặc biệt là đối với hình thức Doanh nghiệp tư nhân, khi ông chủ là người quản lý túi tiền.
Tài liệu tham khảo:
VAS01 - Chuẩn mực chung. Quyết định 165/2002/QĐ-BTC (Ban hành 06 Chuẩn mực kế toán đợt 2).31/12/2002. Bộ Tài chính.
Lesonsky,R.(1998).Basic Accounting Principles.[Internet].Entrepreneur.Link: http://www.entrepreneur.com/money/moneymanagement/bookkeeping/article21908.html
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
Phan Long, CPA. (2006).Các phương pháp kế toán cơ bản. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=805]
Kế toán dồn tích
Accrual basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, được dịch sang tiếng Việt theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam là Kế toán dồn tích. Tuy nhiên, có thể hiểu một cách đơn giản, Accrual basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Dự thu - Dự chi. Theo định nghĩa của Chuẩn mực kế toán chung (VAS 01), “mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền.”
Một ví dụ điển hình của phương pháp Kế toán dồn tích là hoạt động bán chịu. Doanh thu được ghi nhận vào sổ kế toán khi phát hành hoá đơn, giao hàng thay vì vào thời điểm thu được tiền. Tương tự, một khoản chi phí phát sinh và được ghi nhận khi hàng đã được đặt mua hoặc đã chấm công cho công nhân thay vì thời điểm thanh toán tiền. Do đó, điểm yếu chính của phương pháp Kế toán dồn tích đó là công ty phải trả thuế thu nhập trước khi thực nhận được tiền từ doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ.
Kế toán dựa trên dòng tiền
Cash basis, từ nguyên gốc theo tiếng Anh, nhiều khi được hiểu và dịch sai thành “Cơ sở tiền mặt”. Thực chất, cash basis là phương pháp kế toán dựa trên cơ sở Thực thu - Thực chi tiền. Phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền là phương pháp đơn giản nhất. Theo phương pháp này thu nhập và chi phí được ghi nhận khi thực nhận tiền và thực chi tiền.
Chọn Phương pháp kế toán nào cho phù hợp
Phương pháp Kế toán dồn tích được lựa cho hầu hết các doanh nghiệp có khối lượng doanh thu cao, không phân biệt bán chịu hay bán thu tiền ngay, và có kết cấu phức tạp. Thêm vào đó, những doanh nghiệp trong quá trình hoạt động có liên quan đến Hàng hoá tồn khó phải áp dụng phương pháp này; và việc áp dụng Kế toán dồn tích là thực sự cần thiết đối với những doanh nghiệp phát sinh các hoạt động bán chịu, khi đó nó sẽ đảm bảo tính Phù hợp giữa doanh thu và chi phí phát sinh trong một kỳ kế toán nhất định.
Phương pháp Kế toán dựa trên dòng tiền thương được áp dụng đối với những doanh nghiệp nhỏ mà hoạt động chủ yếu dựa trên các luồng tiền ra vào, đặc biệt là các doanh nghiệp dịch vụ không liên quan đến hàng hoá tồn kho. Trên thế giới, đứng trên quan điểm của thuế, một số trường hợp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền mang lại nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp mới đi vào hoạt động. Theo phương pháp này, thu nhập có thể được ghi nhận vào năm tài chính sau, trong khi chi phí hay giá vốn có thể đã được ghi nhận trước, tại thời điểm thanh toán. Do đó, nó đảm bảo nguyên tắc Thận trọng trong kế toán cũng như Thận trọng trong kinh doanh. Tuy nhiên, ở Việt Nam hiện nay, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp này.
Kết hợp giữa Kế toán dựa trên dòng tiền và Kế toán dồn tích
Cũng như Việt Nam, tại một số nước trên thế giới, cơ quan thuế vẫn chưa chấp thuận cho doanh nghiệp áp dụng phương pháp kế toán dựa trên dòng tiền. Tuy nhiên, do ưu điểm là rất đơn giản, một số doanh nghiệp vẫn áp dụng phương pháp kế toán này cho việc ghi chép các nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong năm tài chính, và vào cuối năm tài chính thực hiện CÁC BÚT TOÁN ĐIỀU CHỈNH để chuyển Báo cáo tài chính thành lập-theo-kế-toán-dồn-tích.
Họ đã làm như thế nào? Trong kỳ, kế toán ghi nhận doanh thu tại thời điểm thu được tiền và chi phí tại thời điểm chi tiền. Các hoá đơn phát hành và hoá đơn chi phí phát sinh được theo dõi chi tiết ngoại bảng.
Tại thời điểm cuối năm tài chính, kế toán thống kê lại các hoá đơn bán hàng đã phát hành nhưng chưa được thanh toán, và thực hiện lập bút toán điều chỉnh tăng doanh thu và các khoản phải thu
Nợ Phải thu khách hàng
Có Doanh thu
Kế toán thống kê các hoá đơn chi phí đã phát sinh nhưng chưa thanh toán tiền, và lập bút toán điều chỉnh tăng chi phí và các khoản phải trả.
Nợ Chi phí
Có Phải trả nhà cung cấp
Như vậy, công ty vẫn đảm bảo tuân thủ theo Phương pháp Kế toán dồn tích. Thông thường các hoá đơn chưa thu tiền hoặc chưa thanh toán còn lại rất ít. Do đó, đối với các doanh nghiệp nhỏ, việc hạch toán kết hợp như vậy rất thuận lợi cho công tác quản lý, đặc biệt là đối với hình thức Doanh nghiệp tư nhân, khi ông chủ là người quản lý túi tiền.
Tài liệu tham khảo:
VAS01 - Chuẩn mực chung. Quyết định 165/2002/QĐ-BTC (Ban hành 06 Chuẩn mực kế toán đợt 2).31/12/2002. Bộ Tài chính.
Lesonsky,R.(1998).Basic Accounting Principles.[Internet].Entrepreneur.Link: http://www.entrepreneur.com/money/moneymanagement/bookkeeping/article21908.html
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
Phan Long, CPA. (2006).Các phương pháp kế toán cơ bản. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=805]
Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ ?
Câu hỏi chuyên môn “Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong Báo cáo Lưu chuyển Tiền tệ?” trên www.kiemtoan.com.vn đã được sự hưởng ứng tích cực từ bạn đọc và các thành viên. Bài viết này nhằm trợ giúp bạn đọc và các thành viên có thể tự đưa ra câu trả lời phù hợp nhất. Bài viết dựa trên giả định rằng câu hỏi dành cho doanh nghiệp hoạt động kinh doanh mà không dành cho các tổ chức khác như tổ chức tín dụng, doanh nghiệp công ích hay các tổ chức phi lợi nhuận khác.
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 24 – Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002, Doanh nghiệp phải trình bày các luồng tiền trong kỳ trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo 03 loại hoạt động: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
VAS 24 định nghĩa:
- Hoạt động kinh doanh: Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là các hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính.
- Hoạt động đầu tư: Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền.
- Hoạt động tài chính: Là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
Cổ tức được chia, phần lợi nhuận được chia trên các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khác, không thể nằm trong luồng tiền của hoạt động tài chính. Bởi vì, cổ tức được chia không làm thay đổi quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp, nghĩa là không làm thay đổi phần “bên phải” của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến thời điểm này câu trả lời được lựa chọn nhiều nhất lại là “Hoạt động tài chính”. Nguyên nhân sai lầm có thể được dự đoán là sự nhầm lẫn giữa cổ tức được chia với cổ tức đã chia của doanh nghiệp, hoặc mọi nghiệp vụ liên quan đến cổ phiếu, cổ tức đều được phân loại vào hoạt động tài chính.
VAS 24, đoạn 22 quy định lợi nhuận, cổ tức được chia được phân loại là luồng tiền từ hoạt động đầu tư. Như vậy, trên cơ sở chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán Việt Nam (Quyết định 15), câu trả lời phù hợp là “Hoạt động đầu tư”. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với định nghĩa của VAS 24 về hoạt động đầu tư “Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền”, thì dường như quy định về cổ tức được chia của VAS 24 chưa phù hợp hoàn toàn với chính định nghĩa về hoạt động đầu tư mà VAS 24 đưa ra. Cổ tức được chia là kết quả của hoạt động đầu tư. Như vậy chúng ta cần tham khảo quy định của hệ thống kế toán quốc tế và các nước có hệ thống kế toán phát triển để có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này.
Theo quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế và các nước như Mỹ, Úc, cổ tức được chia phải được trình bày trên một dòng riêng biệt trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các chuẩn mực này quy định một cách linh hoạt. Cổ tức có thể được chia được phân loại là luồng tiền của hoạt động kinh doanh do cổ tức có thể được coi là một khoản thu nhập (income) khi tính lợi nhuận hoạt động. Cổ tức được chia có thể được phân loại là luồng tiền của hoạt động đầu tư do cổ tức có thể là kết quả của hoạt động đầu tư. Quy định linh hoạt cho phép doanh nghiệp có thể trình bày một cách hợp lý hơn báo cáo lưu chuyển tiền tệ của mình dựa trên những đánh giá và xét đoán của ban giám đốc trên cơ sở điều kiện, đặc điểm hoạt động cụ thể của chính doanh nghiệp.
Giống như VAS 24, hầu hết các chuẩn mực kế toán Việt Nam được dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Tuy nhiên, các chuẩn mực kế toán Việt Nam thường quy định một cách cụ thể và chi tiết các nội dung và yêu cầu đối với việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, các chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán tại các nước có hệ thống kế toán phát triển thường quy định một cách linh hoạt, đưa ra những phương án thay thế nhằm giúp doanh nghiệp có sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Đối với người sử dụng báo cáo tài chính trong việc ra các quyết định kinh tế, sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ khiến cho báo cáo tài chính cung cấp thông tin một cách tin cậy và phù hợp hơn. Liệu đã đến lúc các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán tại Việt Nam nên có sự sửa đổi bổ sung đối với các chuẩn mực kế toán, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính tại Việt Nam phát triển như hiện nay?
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
www.kiemtoan.com.vn (2007).Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ ?. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1221]
Theo Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam (VAS) số 24 – Báo cáo lưu chuyển tiền tệ ban hành theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31/12/2002, Doanh nghiệp phải trình bày các luồng tiền trong kỳ trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ theo 03 loại hoạt động: hoạt động kinh doanh, hoạt động đầu tư và hoạt động tài chính.
VAS 24 định nghĩa:
- Hoạt động kinh doanh: Là các hoạt động tạo ra doanh thu chủ yếu của doanh nghiệp và các hoạt động khác không phải là các hoạt động đầu tư hay hoạt động tài chính.
- Hoạt động đầu tư: Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền.
- Hoạt động tài chính: Là các hoạt động tạo ra các thay đổi về quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp.
Cổ tức được chia, phần lợi nhuận được chia trên các khoản đầu tư vào doanh nghiệp khác, không thể nằm trong luồng tiền của hoạt động tài chính. Bởi vì, cổ tức được chia không làm thay đổi quy mô và kết cấu của vốn chủ sở hữu và vốn vay của doanh nghiệp, nghĩa là không làm thay đổi phần “bên phải” của bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp. Tuy nhiên, đến thời điểm này câu trả lời được lựa chọn nhiều nhất lại là “Hoạt động tài chính”. Nguyên nhân sai lầm có thể được dự đoán là sự nhầm lẫn giữa cổ tức được chia với cổ tức đã chia của doanh nghiệp, hoặc mọi nghiệp vụ liên quan đến cổ phiếu, cổ tức đều được phân loại vào hoạt động tài chính.
VAS 24, đoạn 22 quy định lợi nhuận, cổ tức được chia được phân loại là luồng tiền từ hoạt động đầu tư. Như vậy, trên cơ sở chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán Việt Nam (Quyết định 15), câu trả lời phù hợp là “Hoạt động đầu tư”. Tuy nhiên, nếu đối chiếu với định nghĩa của VAS 24 về hoạt động đầu tư “Là các hoạt động mua sắm, xây dựng, thanh lý, nhượng bán các tài sản dài hạn và các khoản đầu tư khác không thuộc các khoản tương đương tiền”, thì dường như quy định về cổ tức được chia của VAS 24 chưa phù hợp hoàn toàn với chính định nghĩa về hoạt động đầu tư mà VAS 24 đưa ra. Cổ tức được chia là kết quả của hoạt động đầu tư. Như vậy chúng ta cần tham khảo quy định của hệ thống kế toán quốc tế và các nước có hệ thống kế toán phát triển để có cái nhìn tổng quát hơn về vấn đề này.
Theo quy định của chuẩn mực kế toán quốc tế và các nước như Mỹ, Úc, cổ tức được chia phải được trình bày trên một dòng riêng biệt trên báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Các chuẩn mực này quy định một cách linh hoạt. Cổ tức có thể được chia được phân loại là luồng tiền của hoạt động kinh doanh do cổ tức có thể được coi là một khoản thu nhập (income) khi tính lợi nhuận hoạt động. Cổ tức được chia có thể được phân loại là luồng tiền của hoạt động đầu tư do cổ tức có thể là kết quả của hoạt động đầu tư. Quy định linh hoạt cho phép doanh nghiệp có thể trình bày một cách hợp lý hơn báo cáo lưu chuyển tiền tệ của mình dựa trên những đánh giá và xét đoán của ban giám đốc trên cơ sở điều kiện, đặc điểm hoạt động cụ thể của chính doanh nghiệp.
Giống như VAS 24, hầu hết các chuẩn mực kế toán Việt Nam được dựa trên các chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) và chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS). Tuy nhiên, các chuẩn mực kế toán Việt Nam thường quy định một cách cụ thể và chi tiết các nội dung và yêu cầu đối với việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Trong khi đó, các chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán tại các nước có hệ thống kế toán phát triển thường quy định một cách linh hoạt, đưa ra những phương án thay thế nhằm giúp doanh nghiệp có sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính. Đối với người sử dụng báo cáo tài chính trong việc ra các quyết định kinh tế, sự chủ động trong việc lập và trình bày báo cáo tài chính của doanh nghiệp sẽ khiến cho báo cáo tài chính cung cấp thông tin một cách tin cậy và phù hợp hơn. Liệu đã đến lúc các nhà soạn thảo chuẩn mực kế toán tại Việt Nam nên có sự sửa đổi bổ sung đối với các chuẩn mực kế toán, nhất là trong điều kiện thị trường tài chính tại Việt Nam phát triển như hiện nay?
Bản quyền:
www.kiemtoan.com.vn giữ bản quyền bài viết này. Khi sử dụng hoặc trích dẫn từng phần của bài viết này cần phải ghi đầy đủ các thông tin như sau:
www.kiemtoan.com.vn (2007).Cổ tức được chia thuộc hoạt động nào trong báo cáo lưu chuyển tiền tệ ?. Bản quyền www.kiemtoan.com.vn
Link: [http://www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=1221]
Học thuyết Keynes và suy thoái kinh tế
Cuộc Đại khủng hoảng (1929-1933) đã ảnh hưởng sâu sắc tới suy nghĩ của Keynes về kinh tế học. Trước đó, các nhà kinh tế cho rằng, mỗi khi có khủng hoảng kinh tế, giá cả và tiền công sẽ giảm đi; các nhà sản xuất sẽ có động lực đẩy mạnh thuê mướn lao động và mở rộng sản xuất, nhờ đó nền kinh tế sẽ phục hồi.
Nhưng Keynes lại quan sát cuộc Đại khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ.
Học thuyết Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát) của John Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng.
Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Keynes với kích cầu
Đã trải qua hơn ba thập kỷ kể từ ngày Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố: “Giờ đây, tất cả chúng ta đều là Keynesian”. Tư tưởng kích cầu bắt nguồn từ học thuyết Keynes, một lần nữa xuất hiện như là giải pháp của các chính phủ đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng.
Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã kéo dài 24 tháng (kể từ tháng 12-2007). Nguy cơ về một cuộc Đại khủng hoảng II lại lần nữa có cơ hội bùng phát.
Trong lịch sử, cuộc khủng hoảng kinh tế dài nhất nổ ra giữa những năm 1970, 1980 và kết thúc trong vòng 16 tháng. Trước tình hình này, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu bằng ngân sách nhà nước.
Tổng thống mới của Mỹ, Barack Obama dự tính dùng 819 tỉ đô la để thực hiện kích cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950, vào việc xây dựng và phát triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường học, Internet, công nghệ trong lĩnh vực năng lượng.
Các nước châu Âu đang lo lắng về nguy cơ thâm hụt ngân sách trên diện rộng kéo dài sau khủng hoảng nhưng lãnh đạo các nước trong khu vực đã đi đầu trong vấn đề kích cầu mặc dù hệ thống phúc lợi xã hội của châu Âu khá tốt và phần nào đã có hiệu ứng kích cầu.
Tương tự, ở châu Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam đều công bố thực hiện các gói kích cầu ở các quy mô khác nhau. Trung Quốc dự tính chi 586 tỉ đô la để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân bay. Việt Nam cũng có kế hoạch huy động số tiền tương đương 1-6 tỉ đô la cho nhiệm vụ kích cầu.
“Tình hình rất xấu, một lần nữa tất cả chúng ta lại là Keynesian, những Keynesian đích thực” Martin Baily, nhà kinh tế trong chính quyền cũ của Bill Clinton, cho biết. “Trong hoàn cảnh khó khăn này, chúng ta cần sử dụng bất cứ thứ vũ khí gì mà chúng ta có”.
Và những hệ lụy có thể
Không phải tất cả các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều ủng hộ lộ trình vượt khủng hoảng đang phổ biến. Bộ trưởng Tài chính Đức, một trong những nước thận trọng nhất trong việc sử dụng gói kích cầu, đã chỉ trích Thủ tướng Anh, Gordon Brown đang theo đuổi “trường phái Keynes đần độn” và lên án ông này đang “tung hứng với hàng tỉ” rồi để lại hậu quả là nợ của chính phủ cho thế hệ sau.
Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (CEPR), nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đã đề ra, mức thâm hụt ngân sách có thể lên tới 12%, gây mất cân đối nghiêm trọng cho nên kinh tế. Các nhà kinh tế trên thế giới cũng cho rằng thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới việc lãi suất tăng, đầu tư vào các khu vực tư nhân (khu vực có hiệu quả sử dụng vốn cao, từ đó có thể cải thiện tình hình xã hội) giảm.
Trong quá khứ, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã áp dụng chính sách kích cầu, tạo ra hàng triệu việc làm trong thời kỳ đại suy thoái nhưng cũng không tránh khỏi việc lãng phí tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn chậm tiến độ và vượt dự toán như dự án đường cao tốc Big Dig ở Boston đã phải mất hơn 20 năm mới hoàn thành, vượt dự toán 5 lần. Nhật cũng đã lãng phí tiền đầu tư vào các sân bay ít dùng, cầu đường dẫn đến các đảo ít người.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó.
Ông Jurgen Stark, thành viên Hội đồng điều hành Ngân hàng trung ương châu Âu, trước đây từng là Phó tổng giám đốc Bundesbank (Ngân hàng trung ương Đức) đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ thất bại kích cầu có thể lặp lại giống như những năm 70. “Tôi thật tình không thể biết liệu các chính sách tài khóa tùy tiện lần này có thể mang lại hiệu quả trong khi nó đã chứng tỏ kém hiệu quả ở những lần trước”.
Kích cầu có phải “thuốc tiên”?
Suy cho cùng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này bắt nguồn từ Mỹ với nguyên nhân chủ yếu là do chính hệ thống tài chính và các chính sách tài chính, tiền tệ với nhiều “mục tiêu” khác nhau của Mỹ để phục vụ cho chính nước Mỹ gây ra.
Bùng nổ kinh tế do chi tiêu của chính phủ tăng, do lãi suất thấp kéo dài nhiều năm mà Alan Greenspan là kiến trúc sư trưởng, do tăng trưởng tín dụng đạt mức kỷ lục kéo theo sự ra đời của các sản phẩm phái sinh nhằm chuyển nhượng rủi ro phát triển chóng mặt (CDO, MBA, ABS), hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động của một mô hình ngân hàng mới (ngân hàng đầu tư) khá lỏng lẻo, kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa thị trường tài chính thế giới đã đưa nền kinh tế thế giới đến bờ vực của suy thoái.
Như vậy, khôi phục kinh tế chính là khôi mục niềm tin của người dân Mỹ vào hệ thống tài chính, chính trị của đất nước họ. Hay nói như TS. Nguyễn Đức Thành, có lẽ chúng ta phải bắt mạch đúng căn bệnh hiện nay của từng nền kinh tế chứ không phải đi tìm liều “thuốc tiên” để chữa bách bệnh cho mọi người. Chính vì vậy, mà người dân Mỹ đã đặt nhiều kỳ vọng vào tổng thống mới Barack Obama vì sự thay đổi của nước Mỹ.
Trong hai cuốn sách mới xuất bản của Samuelson và Krugman có tên The great inflation and its aftermath (Cuộc đại lạm phát và hệ lụy) và The return of depression economics and the crisis of 2008 (Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và cuộc khủng hoảng 2008), các tác giả cũng cho rằng kinh tế học nên được nhìn nhận là một bộ môn nghệ thuật xã hội hơn là khoa học. Tốc độ hồi phục kinh tế có thể sẽ không phụ thuộc vào những con số như lãi suất hay quy mô gói kích cầu mà nó phụ thuộc vào tâm lý.
kiemtoan.com.vn
(Theo thesaigontimes.vn
Nhưng Keynes lại quan sát cuộc Đại khủng hoảng và thấy: tiền công không hề giảm, việc làm cũng không tăng, và sản xuất mãi không hồi phục nổi. Từ đó, Keynes cho rằng thị trường không hoàn hảo như các nhà kinh tế học cổ điển nghĩ.
Học thuyết Keynes là hệ thống lý luận kinh tế vĩ mô lấy tác phẩm Lý thuyết tổng quát về việc làm, lãi suất và tiền tệ (thường được gọi tắt là Lý thuyết tổng quát) của John Maynard Keynes (1883-1948) làm trung tâm và lấy nguyên lý cầu hữu hiệu làm nền tảng.
Nguyên lý cầu hữu hiệu khẳng định rằng, lượng cung hàng hóa là do lượng cầu quyết định. Do đó, vào những thời kỳ suy thoái kinh tế, nếu tăng lượng cầu đầu tư hàng hóa công cộng (tăng chi tiêu công cộng), thì sản xuất và việc làm sẽ tăng theo, nhờ đó giúp cho nền kinh tế ra khỏi thời kỳ suy thoái.
Keynes với kích cầu
Đã trải qua hơn ba thập kỷ kể từ ngày Tổng thống Mỹ Richard Nixon tuyên bố: “Giờ đây, tất cả chúng ta đều là Keynesian”. Tư tưởng kích cầu bắt nguồn từ học thuyết Keynes, một lần nữa xuất hiện như là giải pháp của các chính phủ đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng.
Cho đến thời điểm này, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu đã kéo dài 24 tháng (kể từ tháng 12-2007). Nguy cơ về một cuộc Đại khủng hoảng II lại lần nữa có cơ hội bùng phát.
Trong lịch sử, cuộc khủng hoảng kinh tế dài nhất nổ ra giữa những năm 1970, 1980 và kết thúc trong vòng 16 tháng. Trước tình hình này, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) đang tìm cách thuyết phục các nước áp dụng các gói kích cầu cho nền kinh tế thông qua chi tiêu của chính phủ cỡ khoảng 2% GDP. Không chỉ một vài nước, mà đồng loạt các nền kinh tế từ mới nổi cho đến phát triển, trong đó có Việt Nam, đã có kế hoạch kích cầu bằng ngân sách nhà nước.
Tổng thống mới của Mỹ, Barack Obama dự tính dùng 819 tỉ đô la để thực hiện kích cầu, khoản kích cầu lớn nhất kể từ sau những năm 1950, vào việc xây dựng và phát triển hạ tầng như hệ thống đường cao tốc liên bang, trường học, Internet, công nghệ trong lĩnh vực năng lượng.
Các nước châu Âu đang lo lắng về nguy cơ thâm hụt ngân sách trên diện rộng kéo dài sau khủng hoảng nhưng lãnh đạo các nước trong khu vực đã đi đầu trong vấn đề kích cầu mặc dù hệ thống phúc lợi xã hội của châu Âu khá tốt và phần nào đã có hiệu ứng kích cầu.
Tương tự, ở châu Á, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và cả Việt Nam đều công bố thực hiện các gói kích cầu ở các quy mô khác nhau. Trung Quốc dự tính chi 586 tỉ đô la để cải thiện cơ sở hạ tầng như đường sắt, sân bay. Việt Nam cũng có kế hoạch huy động số tiền tương đương 1-6 tỉ đô la cho nhiệm vụ kích cầu.
“Tình hình rất xấu, một lần nữa tất cả chúng ta lại là Keynesian, những Keynesian đích thực” Martin Baily, nhà kinh tế trong chính quyền cũ của Bill Clinton, cho biết. “Trong hoàn cảnh khó khăn này, chúng ta cần sử dụng bất cứ thứ vũ khí gì mà chúng ta có”.
Và những hệ lụy có thể
Không phải tất cả các nhà hoạch định chính sách trên thế giới đều ủng hộ lộ trình vượt khủng hoảng đang phổ biến. Bộ trưởng Tài chính Đức, một trong những nước thận trọng nhất trong việc sử dụng gói kích cầu, đã chỉ trích Thủ tướng Anh, Gordon Brown đang theo đuổi “trường phái Keynes đần độn” và lên án ông này đang “tung hứng với hàng tỉ” rồi để lại hậu quả là nợ của chính phủ cho thế hệ sau.
Thâm hụt ngân sách là điều khó tránh khỏi ở những nước có kế hoạch kích cầu trên quy mô lớn. Theo TS. Nguyễn Đức Thành, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách (CEPR), nếu Việt Nam thực hiện kích cầu theo đúng kế hoạch đã đề ra, mức thâm hụt ngân sách có thể lên tới 12%, gây mất cân đối nghiêm trọng cho nên kinh tế. Các nhà kinh tế trên thế giới cũng cho rằng thâm hụt ngân sách có thể dẫn tới việc lãi suất tăng, đầu tư vào các khu vực tư nhân (khu vực có hiệu quả sử dụng vốn cao, từ đó có thể cải thiện tình hình xã hội) giảm.
Trong quá khứ, Tổng thống Mỹ Franklin Roosevelt đã áp dụng chính sách kích cầu, tạo ra hàng triệu việc làm trong thời kỳ đại suy thoái nhưng cũng không tránh khỏi việc lãng phí tiền đầu tư vào những dự án không cần thiết. Hơn nữa, các gói kích cầu đều chủ yếu tập trung vào cơ sở hạ tầng, trong khi đó các dự án liên quan đến cơ sở hạ tầng luôn chậm tiến độ và vượt dự toán như dự án đường cao tốc Big Dig ở Boston đã phải mất hơn 20 năm mới hoàn thành, vượt dự toán 5 lần. Nhật cũng đã lãng phí tiền đầu tư vào các sân bay ít dùng, cầu đường dẫn đến các đảo ít người.
Những năm 1960, 1970 kích cầu theo học thuyết Keynes tiếp tục phổ biến khắp nơi trên thế giới mà kết quả là nền kinh tế Mỹ, châu Âu và một số nền kinh tế khác ở châu Mỹ Latin đã phát triển hơn. Phần lớn việc chi tiêu của chính phủ thông qua các gói kích cầu nhằm mục đích đưa nền kinh tế vượt qua khủng hoảng nhưng nó đã kéo theo sự phát triển quá nóng. Kinh tế Mỹ Latin thường xuyên trong tình trạng lạm phát phi mã. Chỉ số chung về lạm phát và thất nghiệp ở Mỹ cũng luôn ở mức cao, lên đến 20,8% năm 1980, tăng hơn 10% so với 10 năm trước đó.
Ông Jurgen Stark, thành viên Hội đồng điều hành Ngân hàng trung ương châu Âu, trước đây từng là Phó tổng giám đốc Bundesbank (Ngân hàng trung ương Đức) đã lên tiếng cảnh báo về nguy cơ thất bại kích cầu có thể lặp lại giống như những năm 70. “Tôi thật tình không thể biết liệu các chính sách tài khóa tùy tiện lần này có thể mang lại hiệu quả trong khi nó đã chứng tỏ kém hiệu quả ở những lần trước”.
Kích cầu có phải “thuốc tiên”?
Suy cho cùng cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu lần này bắt nguồn từ Mỹ với nguyên nhân chủ yếu là do chính hệ thống tài chính và các chính sách tài chính, tiền tệ với nhiều “mục tiêu” khác nhau của Mỹ để phục vụ cho chính nước Mỹ gây ra.
Bùng nổ kinh tế do chi tiêu của chính phủ tăng, do lãi suất thấp kéo dài nhiều năm mà Alan Greenspan là kiến trúc sư trưởng, do tăng trưởng tín dụng đạt mức kỷ lục kéo theo sự ra đời của các sản phẩm phái sinh nhằm chuyển nhượng rủi ro phát triển chóng mặt (CDO, MBA, ABS), hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động của một mô hình ngân hàng mới (ngân hàng đầu tư) khá lỏng lẻo, kết hợp với xu hướng toàn cầu hóa thị trường tài chính thế giới đã đưa nền kinh tế thế giới đến bờ vực của suy thoái.
Như vậy, khôi phục kinh tế chính là khôi mục niềm tin của người dân Mỹ vào hệ thống tài chính, chính trị của đất nước họ. Hay nói như TS. Nguyễn Đức Thành, có lẽ chúng ta phải bắt mạch đúng căn bệnh hiện nay của từng nền kinh tế chứ không phải đi tìm liều “thuốc tiên” để chữa bách bệnh cho mọi người. Chính vì vậy, mà người dân Mỹ đã đặt nhiều kỳ vọng vào tổng thống mới Barack Obama vì sự thay đổi của nước Mỹ.
Trong hai cuốn sách mới xuất bản của Samuelson và Krugman có tên The great inflation and its aftermath (Cuộc đại lạm phát và hệ lụy) và The return of depression economics and the crisis of 2008 (Sự trở lại của kinh tế học suy thoái và cuộc khủng hoảng 2008), các tác giả cũng cho rằng kinh tế học nên được nhìn nhận là một bộ môn nghệ thuật xã hội hơn là khoa học. Tốc độ hồi phục kinh tế có thể sẽ không phụ thuộc vào những con số như lãi suất hay quy mô gói kích cầu mà nó phụ thuộc vào tâm lý.
kiemtoan.com.vn
(Theo thesaigontimes.vn
Thứ Ba, 27 tháng 1, 2009
Mối quan hệ giữa kế toán quản trị với kế toán tài chính, kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết
Quan điểm của nhiều chuyên gia kế toán cho rằng, kế toán trong nền kinh tế thị trường được phân chia thành bốn bộ phận: lý thuyết hạch toán kế toán, kế toán tài chính, kế toán quản trị và kiểm toán.
Trong đó, kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp. Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?. Hai loại kế toán này có mối quan hệ với nhau như thế nào?. Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay không?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kế toán tài chính và kế toán quản trị, để cùng các bạn và những người quan tâm về khoa học kế toán hiểu rõ bản chất và mối quan hệ giữa các bộ phận kế toán tôi xin trao đổi vài nét về vấn đề này.
1. Định nghĩa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại:
Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.
Ví dụ:
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng?
Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bàii toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.
Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
2. Để hiễu rõ được mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
2.1. Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.2. Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
* Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
- Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định.
Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).
3. Có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế toán chi tiết không?
Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các "thuật ngữ" trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằn trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.
Đ-NGA:ST
Trong đó, kế toán quản trị và kế toán tài chính được coi là bộ phận hữu cơ của kế toán doanh nghiệp. Kế toán quản trị và kế toán tài chính là gì?. Hai loại kế toán này có mối quan hệ với nhau như thế nào?. Kế toán tài chính có phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị có phải là kế toán chi tiết hay không?. Hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau về kế toán tài chính và kế toán quản trị, để cùng các bạn và những người quan tâm về khoa học kế toán hiểu rõ bản chất và mối quan hệ giữa các bộ phận kế toán tôi xin trao đổi vài nét về vấn đề này.
1. Định nghĩa kế toán quản trị và kế toán tài chính
Kế toán được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Trong đó kế toán quản trị đưa ra tất cả các thông tin kinh tế đã được đo lường xử lý và cung cấp cho ban lãnh đạo doanh nghiệp để điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, hay nói cách khác kế toán quản trị giúp ban lãnh đạo doanh nghiệp cân nhắc và quyết định lựa chọn một trong những phương án có hiệu quả kinh tế cao nhất: phải sản xuất những sản phẩm nào, sản xuất bằng cách nào, bán các sản phẩm đó bằng cách nào, theo giá nào, làm thế nào để sử dụng có hiệu quả các nguồn lực và phát triển khả năng sản xuất. Các quyết định này gồm hai loại:
Quyết định mang tính chất ngắn hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bài toán kinh tế trong thời kỳ ngắn hạn.
Ví dụ:
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp có thể bán sản phẩm với giá thấp hơn giá ở điểm hoà vốn?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên tự chế hay đi mua một vài bộ phận của sản phẩm?
- Trong trường hợp nào doanh nghiệp nên bán ra bán thành phẩm thay vì tiếp tục hoàn thiện thành sản phẩm cuối cùng?
Quyết định mang tính dài hạn: Các quyết định này giúp doanh nghiệp giải quyết các bàii toán kinh tế hoạch định chiến lược đầu tư dài hạn như: Trong trường hợp nào doanh nghiệp quyết định thay thế mua sắm thêm các máy móc thiết bị hay thực hiện phát triển thêm lĩnh vực kinh doanh.
Còn kế toán tài chính là kế toán phản ánh hiện trạng và sự biến động về vốn, tài sản của doanh nghiệp dưới dạng tổng quát hay nói cách khác là phản ánh các dòng vật chất và dòng tiền tệ trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp với môi trường kinh tế bên ngoài. Sản phẩm của kế toán tài chính là các báo cáo tài chính. Thông tin của kế toán tài chính ngoài việc được sử dụng cho ban lãnh đạo doanh nghiệp còn được sử dụng để cung cấp cho các đối tượng bên ngoài như: Các nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê.
2. Để hiễu rõ được mối quan hệ giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính ta cần phân tích sự giống nhau và khác nhau giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị
2.1. Sự giống nhau
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ với thông tin kế toán, đều nhằm vào việc phản ánh kết quả hoạt động của doanh nghiệp, đều quan tâm đến doanh thu, chi phí và sự vận động của tài sản, tiền vốn.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ chặt chẽ về số liệu thông tin. Các số liệu của kế toán tài chính và kế toán quản trị đều được xuất phát từ chứng từ gốc. Một bên phản ánh thông tin tổng quát, một bên phản ánh thông tin chi tiết.
* Cả hai loại kế toán đều có mối quan hệ trách nhiệm của Nhà quản lý.
2.2. Sự khác nhau
* Mục đích:
- Kế toán quản trị có mục đích: Cung cấp thông tin phục vụ điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Kế toán tài chính: Cung cấp thông tin phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính.
* Đối tượng phục vụ:
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán quản trị là: Các nhà quản lý doanh nghiệp (Hội đồng quản trị, ban giám đốc)
- Đối tượng sử dụng thông tin về kế toán tài chính là: Các nhà quản lý doanh nghiệp và các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp (Nhà đầu tư, ngân hàng, cơ quan thuế, cơ quan tài chính, cơ quan thống kê)
* Đặc điểm của thông tin:
- Kế toán quản trị nhấn mạnh đến sự thích hợp và tính linh hoạt của số liệu, thông tin được tổng hợp phân tích theo nhiều góc độ khác nhau. Thông tin ít chú trọng đến sự chính xác mà mang tính chất phản ánh xu hướng biến động, có tính dự báo vì vậy thông tin kế toán quản trị phục vụ cho việc đánh giá và xây dựng các kế hoạch kinh doanh, thông tin được theo dõi dưới hình thái giá trị và hình thái hiện vật.
Ví dụ: Kế toán vật tư ngoài việc theo dõi giá trị của vật tư còn phải theo dõi số lượng vật tư.
- Kế toán tài chính phản ánh thông tin xảy ra trong quá khứ đòi hỏi có tính khách quan và có thể kiểm tra được. Thông tin chỉ được theo dõi dưới hình thái giá trị.
* Nguyên tắc cung cấp thông tin:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc, các nhà quản lý được toàn quyền quyết định và điều chỉnh phù hợp với nhu cầu và khả năng quản lý của doanh nghiệp.
- Kế toán tài chính phải tôn trọng các nguyên tắc kế toán được thừa nhận và được sử dụng phổ biến, nói cách khác kế toán tài chính phải đảm bảo tính thống nhất theo các nguyên tắc và chuẩn mực kế toán nhất định để mọi người có cách hiểu giống nhau về thông tin kế toán đặc biệt là báo cáo tài chính và kế toán tài chính phải tuân thủ các quy định của pháp luật hiện hành, đặc biệt là những yêu cầu quản lý tài chính và các yêu cầu của xã hội thông qua việc công bố những số liệu mang tính bắt buộc.
* Phạm vi của thông tin:
- Phạm vi thông tin của kế toán quản trị liên quan đến việc quản lý trên từng bộ phận (phân xưởng, phòng ban) cho đến từng cá nhân có liên quan.
- Phạm vi thông tin của kế toán tài chính liên quan đến việc quản lý tài chính trên quy mô toàn doanh nghiệp.
* Kỳ báo cáo:
- Kế toán quản trị có kỳ lập báo cáo nhiều hơn: Quý, năm, tháng, tuần, ngày.
- Kế toán tài chính có kỳ lập báo cáo là: Quý, năm
* Quan hệ với các môn khoa học khác:
Kế toán tài chính ít có mối quan hệ với các môn khoa học khác.
Do thông tin kế toán quản trị được cung cấp để phục vụ cho chức năng quản lý, nên ngoài việc dựa vào hệ thống ghi chép ban đầu của kế toán tài chính thì kế toán quản trị còn phải kết hợp và sử dụng nội dung của nhiều môn khoa học khác như: Kinh tế học, thống kê kinh tế, tổ chức quản lý doanh nghiệp, quản trị đầu tư để tổng hợp phân tích và xử lý thông tin.
* Tính bắt buộc theo luật định:
- Kế toán quản trị không có tính bắt buộc.
- Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định.
Kế toán tài chính có tính bắt buộc theo luật định có nghĩa là sổ sách báo cáo của kế toán tài chính ở mọi doanh nghiệp đều phải bắt buộc thống nhất, nếu không đúng hoặc không hạch toán đúng chế độ thì báo cáo đó sẽ không được chấp nhận (tham khảo thêm về luật kế toán vừa ban hành).
3. Có phải kế toán tài chính là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị là kế toán chi tiết không?
Để hiểu rõ và tránh nhầm lẫn về các "thuật ngữ" trên ta cần phân tích mối quan hệ giữa kế toán tài chính với kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết.
Kế toán tài chính và kế toán tổng hợp: Kế toán tổng hợp là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằn trình bày các số liệu báo cáo mang tính tổng hợp về tình hình tài sản, doanh thu chi phí và kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một kỳ kế toán vào một thời điểm nhất định. Nói cách khác kế toán tổng hợp chỉ liên quan đến tài khoản của sổ cái tổng hợp và báo cáo tài chính.
Kế toán tài chính và kế toán chi tiết: Kế toán chi tiết là một bộ phận của kế toán tài chính, nhằm chứng minh các số liệu ghi trong tài khoản tổng hợp là đúng trong quá trình ghi chép và lập báo cáo kế toán, đây cũng là công việc phải làm trước khi khoá sổ kế toán để quyết toán. Thuật ngữ thông thường gọi là đối chiếu giữa tổng hợp và chi tiết.
Ví dụ: Như việc thực hiện đối chiếu giữa tài khoản phải thu với sổ công nợ chi tiết của từng khách hàng, đối chiếu tài khoản phải trả với sổ chi tiết công nợ của từng nhà cung cấp hay việc đối chiếu tài khoản nguyên vật liệu với sổ chi tiết vật tư, đối chiếu tài khoản chi phí sản xuất kinh doanh dở dang với thẻ chi tiết tính giá thành sản phẩm.
Tóm lại trong kế toán tài chính bao giờ cũng có kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, vì vậy kế toán tài chính không phải là kế toán tổng hợp và kế toán quản trị không phải là kế toán chi tiết.
Đ-NGA:ST
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)